Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2007

HOA TRINH NỮ

truyện ngắn cẩm an sơn

Trời tối đã lâu.
Đêm ở đây rất yên tĩnh. Không gian như lắng sâu vào cái vô tận của muôn đời nơi nội cỏ. Những bước đi của thời gian không còn nghe thấy, trong cái hư vô diễm ảo của ban đêm thôn quê, mà chỉ biết một cảm giác mông lung say sưa, êm như một giấc ngủ ngàn đời.
Đương ngồi cắm cúi ở bàn viết, thốt nhiên tôi bắt gặp trong thính quan, một tiếng động rất khẽ. Tôi chú ý lắng tai nghe. Tiếng động nhè nhẹ hình như là của những viên sỏi chạm vào nhau. Thanh âm ngắn và rờn rợn gợi lên từ phía thềm nhà.. Chợt im lặng. Tôi đồ chừng rằng một cành cây nhỏ vừa chuyển mình trong đêm khuya, hay một thớ vỏ bị nứt nẻ vì căng nhựa,.
Một phút, tiếng động lại nổi lên, mơ hồ..


Vẫn không ngẩng lên, tôi cố giữ hơi thở thật êm, để nhận ra đấy là những bước đi rất nhẹ nhàng. Những khoảng cách ngắn và đều dần rõ hơn, lần này không phải ở thềm cửa chính, mà về phía cửa sổ truớc mặt. Tôi chợt thấy những trang bản thảo dưới tay tôi lật lên từng lúc, tuy trời không gợn một chút gió. Một cảm giác tê buốt, chạy suốt từ mông qua xuơng sống lên ót. Khẻ rùng mình tôi ngẩng lên thật nhanh, nhìn về phía cửa sổ. Vẫn một khoảng trời đen đặc bên ngoài,..
Một cơn mưa lớn đổ xuống bất chợt. Sấm sét nổ ầm ầm. Gió nổi lên từng luồng, xoáy mạnh qua khóm cây, làm vụt tung những chiếc lá nghe rào rào trong bóng tối. Aùnh đèn vụt nghiêng ngả lung linh làm những chiếc bóng đen trên tường chập chờn cử động..
Trong một lằn chớp thật sáng, tôi thoáng thấy một tà áo trắng hiện ra sau khung cửa. Chớp mắt, tôi định thần chờ một luồng sáng tiếp theo, bỗng có tiếng gõ cửa rất gấp.
Hơi e ngại, tôi đứng dậy rút then cho cánh cửa bật mở.
Luồng gió mạnh tạt vào phòng, mang theo một thiếu nữ. Với dáng điệu tự nhiên, nàng quay lại khép cánh cửa, rồi cài chiếc then vào như một động tác quen thuộc. Nàng mặc toàn một màu trắng, màu trắng hơi xanh xao làm tôi rợn ngưòi. Tôi thốt nghĩ đếùn những câu chuyện ma quái và một lần nữa lại rùng mình. Thiếu nữ khẻ cúi đầu chào tôi, rồi bước đến ngồi vào chiếc ghế trống cạnh bàn.
Tôi nhìn thẳng vào mắt nàng, cố giữ giọng cho được tự nhiên, khẻ hỏi :
- Cô về đâu giữa khuya mưa gió như thế này ?
Thiếu nữ yên lặng, đầu nàng hơi nghiêng, dáng người chao đổ. Những hạt mưa đọng lấm tấm trên vai áo nàng, lấp lánh sáng. Tôi có cảm tưởng chiếc áo nàng đang mặc được kết bằng những hạt kim cương. Nàng rất đẹp. Một vẽ đẹp mang những nét mong manh, nhỏ bé. Đôi mắt đen và sâu, hé mở sau hàng mi chực khép kín, như chứa đựng tất cả những u buồn của cuộc đời. Vầng trán mịn màng nhưng không phẳng như tuổi xuân, mà rắn lại bằng nhiều ưu tư của dỉ vãng – tôi nghĩ thế – Cái mũi vẽ nên một nét thẳng và nhỏ nhắn, nhìn xuống đôi môi đỏ thắm, chúm chím như chực thốt lên những lời chua xót.
Nàng không cười, vẽ nghiêm trang càng nổi bật lên từ cái dáng nghiêng nghiêng, như sự khép nép e lệ của người đàn bà trong luân lý Đông phương.
Tôi chợt có ý tưởng so sánh nàng với những mảnh ngọc vở. Một sự ràng buộc chắp nối những cái gì đẹp và thanh khiết đang hiện lên trong châu thân nàng. Một vẽ đẹp huyền ảo như thứ ánh sáng của trăng khuya, phản chiếu từ một mặt hồ lặng gió.
Thiếu nữ ngước mắt nhìn tôi, nàng chậm rải nói trong nhịp thở điều hoà:
- Nhà em ở xóm phía đông. Đi ngang đây gặp mưa, nhìn thấy có ánh đèn nên em mới ghé vào xin anh cho trú tạm.
Giọng nàng ấm và trong, như tiếng suối róc rách qua khe đá trong một sớm mùa xuân trên đồi vắng. Nàng nói tiếp :
- Thường đêm em đi về ngang đây, và có lần qua cánh cửa mở, em đã thấy anh ngồi viết có vẻ say sưa sau chiếc bàn này,
Tôi ngạc nhiên tưởng nàng nói đùa, nhưng thiếu nữ vẫn thản nhiên gần như nghiêm trang, lạnh lùng :
- Em rất thích nghe đọc thơ hay ngâm thơ. Hồi thầy em còn sống ông thường ngâm những bài thơ Đường thật hay, mãi đến bây giờ em vẫn còn nhớ..
Tôi ngắt lời nàng :
- Thế ra..
Như đoán được ý tôi, nàng thản nhiên nói tiếp :
- Vâng, thầy em mất từ khi em mới mười sáu tuổi. Gịong ngâm thơ của thầy em hồi đó cũng giống như giọng ngâm của anh bây giờ, nhưng giọng anh trong hơn, thanh hơn, vì anh còn trẻ. Một buổi tối đi ngang qua đây, em nghe anh đang ngâm một bài thơ, cũng lại là bài thơ Đường ngày xưa thầy em thích nhất. Từ đó em bỗng có cái cảm giác gần gũi, và nghĩ rằng có thể anh với em cùng là người thân thích.
Tôi hơi lạ lùng về ý nghĩ của nàng , nhưng không phản đối.
Và đêm hôm đó tôi bằng lòng chong đèn đọc thơ cho nàng nghe. Nàng vẫn ngồi yên trên chiếc ghế như khi mới đến. Tôi nhận ra rằng nàng rất tỉnh táo, không có vẽ gì mỏi mệt sau một đêm thức trắng.
Với dáng điệu tự nhiên và nhẹ nhàng, nàng từ giả tôi lúc trời vừa sáng. Khi nàng ra khỏi cửa, tôi chợt nhớ chưa biết tên nàng, tôi chạy theo ra, hỏi :
- Xin lỗi, tên em là gì ?
Nàng cười, ranh mảnh :
- Em không có tên.
Tôi nhìn nàng quay đi, bước chân thoăn thoắt trên lối cỏ. Bóng nàng dần khuất sau bờ giậu. Thấp thoáng sau đám lá, tôi chỉ còn nhận ra một tà áo trắng đang lẫn vào một ngõ hẹp ở cuối vườn..mang theo của tôi ít nhiều bâng khuâng.
Quay vào nhà tôi đốt lò pha một cốc sữa nóng, chất đăng đắng ỏ cổ họng phút chốc biến đi, tôi khoan khoái nằm dài trên giường nhìn cảnh vật bên ngoài khung cửa.
Buổi sáng ở đây đẹp và yên lặng quá. Nắng vàng xao xuyến qua cánh liếp, rọi vào nhà một thứ ánh sáng rất trong. Qua một đêm mưa, cảnh vật bừng tươi lên và xanh biếc một màu. Từ trong khóm lá đằng xa, tiếng chim hót lên cao vút..
Tôi đến trú ngụ tại nơi này mới được khoảng hơn vài tuần lễ. Căn nhà này vốn trước đây bị bỏ hoang vì người ta đồn rằng có ma, nên chẳng ai dám ở cả. Những câu chuyện ma quái rùng rợn được kể lại làm cho giá tiền thuê nhà hạ xuống thật thấp. Sự kiện này lại thích hợp với tôi, một người viết văn nghèo. Tôi hỏi thuê và rất sung sướng vì tìm được một nơi yên tĩnh. Giấc ngủ buổi sáng ở đây thật nhẹ và trong. Không khí êm và tươi mát đủ cho tôi lấy lại sức khoẻ sau những đêm thiếu ngủ vì mãi mê làm việc.
Chung quanh căn nhà toàn là những đám hoa dại. Có lẽ cũng khá lâu rồi không có nguời săn sóc, nên tha hồ cho các thứ cỏ dại xâm chiếm gần trọn khu vườn. Tôi nghĩ rằng, chỉ những nơi có cây cối cao lớn, sống lâu năm thì ma quái mới lấy đó làm nơi trú ngụ, nơi đây chẳng co ùnhững cây lớn như thế. Và tôi yên lòng.
Một buổi chiều, trong lúc đi dạo chơi ngoài vườn, tôi tìm thấy một chậu hoa bằng sành rất đẹp. Đem bày bên cửa sổ, định tìm một cây có hoa nào đó để trồng, nhưng chưa có dịp. Tình cờ tôi nhìn thấy trên khoảnh đất nhỏ sau vườn mọc rất nhiều cây trinh nữ. Đó là một loại cỏ có gai, có những phiến lá dài nằm đối nhau qua một chiếc cộng lá, bình thường lá mở xoè ra, nhưng khi động đến nó thì nhũng chiếc lá liền xếp lại thành từng đôi một. Tôi bỗng có ý định đem trồng thử vài cây vào chậu, để lúc rổi rải nhìn xem những phiến lá từ từ mở ra sau khi đã khép lại. Và sau đó, đã có lúc tôi đứng nhìn hàng giơ, chờ xem sự khép mở của cây trinh nữ.
Hình ảnh người con gái đêm qua còn để lại trong tôi nhiều ý nghĩ đẹp. Tôi bỗng nhớ đến truyện Liễu Trai với những nàng hồ ly duyên dáng, và mỉm cười một mình. Lúc còn bé, khi nghe kể chuyện ma, mẹ tôi thường nói rằng “ma thường bước đi khác với con người, chân ở trên cao, không bao giờ chấm đất”. Tôi vụt ngồi dậy, đi ra ngoài lối cỏ, và tìm thấy những vết chân người con gái đã đi qua, còn in lại bằng những giọt sương vỡ.

Rồi từ đó cứ ba, bốn hôm một lần nàng lại đến với tôi trong dáng cũ. Vẫn nụ cười không mở, đôi mắt u buồn và chiếc áo dài kiểu cổ, trắng rờn rợn. Vẫn nhưng câu chuyện như lúc ban sơ : Văn chương và nghệ thuật. Tôi rất ngạc nhiên thấy nàng không thay đổi một tí gì. Từ cái chỗ ngồi buổi trước, đến lối nói chuyện trầm và đều trên cái khuôn mặt nghiêm trang lạnh lùng. Đã là lần thứ mấy rồi trong những lần gặp nhau, mà tôi vẫn chưa tìm ra được ở nàng một chút gì quen thuộc. Tôi chưa được đọc tên nàng từ cửa miệng,
Nàng cũng bớt khép nép e dè, ánh mắt nhìn tôi càng trìu mến, giọng nói thỏ thẻ ngọt ngào.Càng bàn luận văn chương thi phú với người con gái vừa xinh đẹp nhu mì vừa thông minh thanh nhã, lòng tôi không khỏi dâng lên niềm cảm mến. Rồi tình yêu đến với tôi lúc nào không hay, tình yêu giấu kín nhưng sâu đậm đã tích lũy từ những lần gặp gỡ trong căn nhà hoang vắng, trong những câu chuyện trao đổi suốt những đêm dài. Tình yêu nhẹ nhàng thanh khiết như đóa hoa dại trong vườn, như sương khuya mơ lãng đãng, lãng mạn liêu trai như vầng trăng lạnh lẽo đêm về Tình yêu đơn phương ấy tôi vẫn giấu kín trong lòng, chưa một lần nào dám biểu lộ hay bày tỏ với nàng vì thấy nàng thật đoan chính, thật thanh khiết mong manh, chỉ sợ động một chút sẽ bị tan biến mất, chỉ sợ nàng bỏ đi thì lòng tôi sẽ hối hận khôn nguôi, đời tôi sẽ là những chuỗi ngày vô vị. Nhưng đêm nay, một đêm thật yên tỉnh trong bầu không khí thân mật ấm cúng, ánh trăng rằm rực rỡ chiếu qua song cửa, rọi lên chiếc gối đơn lẻ một màu xanh nhạt dịu dàng, lòng xuân của kẻ thư sinh bấy lâu thường lắng hồn vào mộng tưởng với những dòng thơ lãng mạn, bỗng chốc trỗi dậy..Trong một phút lòng trần đầy cảm xúc si mê, tôi như rơi vào cơn mê loạn, đi những bước mộng du, tôi đã dìu nàng đến bên giường, ôm trọn lấy thân hình nhẹ nhàng mảnh mai va đặt lên môi nàng một nụ hôn thắm thiết. Nhưng môi nàng lạnh ngắt, thân người trở nên mềm nhũn trong tay tôi, mặt nàng trắng bệch, nàng xô tôi ra, những giọt nước mắt rơi xuống đôi má xanh xao, đôi mắtt nhìn tôi như hờn trách rồi không nói một lời, nàng vụt đứng dậy bước nhanh ra khỏi cửa như làn gió thoảng.

...Bẳng đi thật lâu, một hôm nàng đến với tôi thật trễ, nét mặt càng đượm vẽ âu sầu buồn bã nhưng không có vẽ gì giận dỗi đối vớoi tôi vì sự việc đã xảy ra đêm ấyKhác với mọi lần, lần này nàng mặc một chiếc áo dài mầu đỏ thắm. Thoạt nhìn thấy, tôi rùng mình nghĩ rằng toàn thân nàng như đẫm những máu. Máu khô thì sẩm lại, nhưng màu áo người con gái vẫn tuơi, một màu tươi không rực rỡ mà lạnh lẽo đến ghê rợn. Tôi linh cảm một sự thay đổi và bắt đầu chờ nghe nàng vào câu chuyện.
Nàng mĩm cười, một nụ cười đầu tiên từ lúc tôi gặp và quen biết nàng cho đến bây giờ. Nụ cười đẹp rạng rỡ nhưng tôi hình dung, phía sau nó ẩn chứa nhiều nước mắt. Nàng hớp một tí trà trong chiếc tách mà tôi vừa trao cho, rồi lim dim… mơ màng. Lần đầu tiên tôi thấy nàng có những cử chỉ khác thường. Sau làn hơi nước, khuôn mặt nàng tươi lên.
Ánh mắt nàng vụt sáng như sao, nàng quay nhìn thẳng vào tôi, giọng trong veo
- Anh tha lỗi cho em nhé. Hôm nay em vui quá nên…
Nàng ngừng lại, cúi xuống uống thêm một ngụm trà nữa, rồi với giọng trầm trầm, nàng bắt đầu nói :
- Hôm nay em sẽ kể cho anh nghe một câu truyện, câu truyện mà chính anh muốn biết từ lâu, nhưng mãi đến bây giờ em mới có thể kể cho anh nghe được.
“Ngày xưa, cách đây không lâu lắm.. ở một làng kia có một gia đình rất giầu có. Hai vợ chông nhà ấy sống hiền đức, thương nguời, thường cứu giúp kẻ nghèo khó, tuy nhiên vì kiếp trước mang phải cái nghiệp quá nặng, nên đời này phải chịu cô độc, không có con cái để nối dòng.
Một năm nọ, trời hạn hán, mất mùa, khắp nơi người ta chết đói rất nhiều. Hai vợ chồng người giàu kia, bèn đem phân phàt thóc gạo, của cải cho những người lâm cảnh khốn khổ đó. Việc làm từ thiện này đã thấu tới thiên đình, nên cuối năm đó, mặc dù đã trên bốn mươi tuổi, nhưng bà vợ lại sinh được một đứa con đầu lòng. Đó là một đứa con gái.
Tôi chận lời :
- Mà người con gái ấy là..
- Là em.. Đứa con gái ngoan ngoản lớn lên trong niềm vui của cha mẹ, nhưng rồi một ngày kia có loạn, giặc từ phương Bắc tràn đến, chúng giết nguời cướp của, hai ông bà nhà giàu bị chúng giết trước tiên và bắt người con gái đem đi.
Nước mắt long lanh trên mi, nàng ngừng lại một vài giây rồi nghẹn ngào tiếp :
- Nàng bi ép buộc làm vợ viên chỉ huy, nhưng nàng cự tuyệt và trốn ra sau ngôi chùa làng, dùng dây treo cổ, tự vẫn để giữ tròn trinh tiết."
Tôi rùng mình nghĩ đến vòng dây thòng lọng. Như hiểu được điều suy nghĩ thầm kín của tôi, thiếu nữ mĩm cười nghiêng đầu, đưa tay vén tóc lên, để lộ ra một cái cổ trắng ngần, có hằn một vệt dây vòng quanh bầm tím.
Nàng hạ thấp giọng :
- Thế rồi vì nàng chết đúng vào giờ linh, nên vị Thành-hoàng nơi đó biến nàng thành một loại cỏ lá nhỏ, thường mọc ở những vùng đất hoang. Khi có ai đụng đến thì những lá cỏ ấy khép lại, như một linh hồn chưa mở, vội khép lại vĩnh viễn từ giả cuộc đời. ..Thưa anh, chính em là thứ cỏ mà anh đã trồng vào chiếc chậu sành này, em chính là hồn cây trinh nữ, anh đừng sợ hãi gì cả, hôm nay em đến để từ biệt anh, ngày mai em sẽ được hoá kiếp đi đầu thai, em mến anh lắm nên xin được tặng anh một chút kỷ niệm.
Nàng lấy trong khăn tay ra một chiếc hoa trắng đã khô, nhẹ nhàng gắn lên một cành cây nhỏ trước mặt tôi, đoạn nàng hé môi thổi một hơi nhẹ vào nó. Chiếc hoa như tiếp được nguồn sinh lực bỗng tươi hẳn ra và xinh đẹp vô cùng. Tôi lạ lùng ngắm chiếc hoa, đến khi quay lại thì người thiếu nữ đã không còn ở đó nữa.
Bên ngoài trời đã sáng hẳn, Một cơn gió sớm thoảng vào, làm chiếc hoa rung lên nhè nhẹ. Tôi đứng dậy vươn vai bưóc ra hiên, bên tai vẫn như còn văng vẳng lời thì thầm của người con gaí : “Em là hồn hoa trinh nữ”

Gác Liễu Trang đêm Xuân Canh Tý (1960)


CẨM AN SƠN

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2007

CHÚT TÌNH SAU CƠN BÃO LỤT

* Tạp bút của CẨM AN SƠN
1-
- Chú Lành hả ?
- Em đây anh,
- Khoẻ không, trận bão ngày hôm kia nhà cửa có hề gì không, bà con trong làng trong xóm mình có ai bị thiệt hại nhiều không ?
- May mắn không hề gì anh à, vùng mình có gió mạnh nhưng không đáng kể, nghe nói tâm bão chính ở Ðà Nẳng, ngoài đó bị thiệt hại nặng lắm, có đến mấy chục người chết, nhà cửa sụp đổ tan hoang, vùng Ðại Lộc chỗ dì Trí nước lụt tràn ngập quá chừng chừng.
- Tui hỏi chú là để biết rõ thêm tình hình ở Tam Kỳ thôi, chớ còn ở Ðà Nẳng thì tôi có thấy hình trên internet và tường thuật trên các đài TV ở Mỹ rồi,


- Ủa, lẹ rứa hả anh, ở Mỹ mà anh biết chuyện Ðà Nẳng mau hơn ở đây, ở đây em chỉ nghe nói đi nói lại thế thôi, đài điện chỉ mới nói lờ mờ là bão lụt ngoài đó lớn lắm chớ chẳng có gì cụ thể.
- Thời buổi bây giờ mà, văn minh điện toán giờ lẹ như chớp, trên thế giới chỗ nào có biến cố gì lớn là mọi người biết liền hà…, à mà hôm nay còn mưa không, chú có rảnh cho tôi nhờ công chuyện này một chút.
- Cũng còn mưa lắc rắc thôi, chuyện gì vậy anh ?
- Nhờ chú thu xếp đi Ðà Nẳng một bữa, chú có thể rủ thêm một người nào đó nữa cùng đi với chú cho vui, có thể rủ thằng Lý cùng đi với được không, thằng này nó lanh lẹ, chịu khó.
- Nó đang đi làm đâu dưới Tam Kỳ, chiều tối nó mới về, để tối nay em lên rủ nó thử coi, mà có chuyện gì quan trọng không mà phải đi hai người ?
- Số là hôm qua sau khi xem tin tức thấy cảnh bão lụt tàn phá ở quê hương mình, nhất là thấy những cảnh tàn phá xóm nghèo ở Ðà Nẳng với nhiều người chết và bị thương trông thật tội nghiệp, nên thằng Nhã nói trong bữa cơm chiều cùng cả nhà rằng, giờ này chắc có hàng trăm đồng bào mình đang lâm vào cảnh không có nơi nương tựa, không cơm ăn áo mặc, mình phải làm gì để cứu giúp họ với chứ ? Mẹ nó bảo, thì mình tiết kiệm góp ít trăm cho các hội đoàn, chắc mai mốt đây họ cũng tổ chức quyên góp gởi về như mấy trận lụt trước, nhưng Nhã lại nói cứu đói thì phải làm gấp liền, chứ chờ cho quyên góp rồi gởi về thì quá chậm, mà còn có thể bị ăn xén, ăn bớt còn lại được bao nhiêu. Tôi gợi ý rằng :” thôi thì mình gọi điện thoại về cho chú Lành, nhờ chú mượn đỡ đâu đó năm ba trìệu rồi trực tiếp ra tận nơi xem người nào quá khốn khó thì tặng cho họ ít tiền để mua gạo mua mắm sống đỡ, chờ đến khi cứu trợ chắc cũng còn lâu. Thế là Nhã bằng lòng và nói : con sẽ cho một ngàn đồng, ba me cứ gọi về nhờ chú Lành đi thăm và phân phát liền, nhà nào có người chết thì cho 5 trăm ngàn, những nhà đổ nát không có gì ăn, thì biếu vài ba trăm ngàn sống đỡ. Vì thế tôi liền gọi chú đây, liệu xem có làm được không ?
· - Dạ được chớ anh, Anh chị và cháu có lòng tốt như vậy thì quý quá, em sẽ cố gắng lo liền, chắc không gì trở ngại đâu.
· - Cám ơn chú, chịu khó một chút nha, đi càng sớm càng tốt, ngày mốt tôi sẽ gọi lại, Thăm Dì Út cùng mấy cháu, Bye.
 
2-
· - Hello dì Út, khoẻ không ? Chú Lành có đi Ðà Nẳng không vậy ?
· - Có, Ảnh đi với thằng Lý mới về hồi hôm gần mười giờ đêm mới tới nhà, có cả bé Chinh nữa, mấy cha con về trễ làm em lo quá trời. Ðể em gọi anh Lành nói chuyện với anh,…
· - Có em đây anh
· - Cám ơn chú nhiều nha, chuyến đi hôm qua có mệt lắm không, kết qua ra sao ?
- Kể ra thì cũng mệt thiệt, vì mới lần đầu tiên chúng em làm công việc này nên cũng hơi lúng túng, chiều hôm qua xém chút nữa là bọn em bị đám đông làm dữ rồi chứ.
- Sao vậy ?
- Tiền thì có hạn, mà người bị nạn thì quá đông, nên họ thấy mình cho chỗ này mà không chỗ kia thì la ó lung tung, nhà nào cũng muốn kéo mình tới xem cho rõ để xin cấp tiền, làm em và Lý phải phân trần, giải thích một lúc lâu bà con mới chịu cho đi khỏi đó.
- Họ có hỏi tiền ở đâu gởi cho không ?
- Có, em nói anh em tui ở trong Tam Kỳ may mắn nhà cửa không bị gì, nghe nói ngoài này bị nặng lắm, nên nhân dịp ra thăm ông chú cũng bị sụp nhà, thuận đường còn chút ít tiền ghé đến ủng hộ cho bà con gọi là chia xẻ nỗi khổ sau cơn bão, thế thôi.
- À, nói vậy là hợp lý đó
- Có nghe nói chính quyền địa phương đã giúp gì chưa ?
- Nghe đâu hôm trước đó có tập trung đồng bào tại xã chầu chực cả ngày mà mỗi gia đình chỉ được cấp hai kí gạo với năm gói mì..
- Sáng hôm qua vì còn phải đi lấy tiền, mặc dù bọn em đã hỏi trước rồi, nhưng tiền không có sẵn chờ đến 9 giờ bà Tám mới nhận được có 5 triệu, vì thế ra đến Ðại Lộc đã hơn 11 giờ, trời còn mưa lai rai nhưng chưa lạnh. Kể từ hôm bão đến nay không biết tin tức nhà dì Trí như thế nào, nên Chinh bảo nhân dịp này ghé lên Dì xem thử có bị thiệt hại gì không. Bọn em đến nơi thì nhà Dì Trí đang ăn cơm trưa, thấy chúng em vào dì Trí định nấu cơm thêm, nhưng Hà và Chinh rủ nhau chạy đi mua bánh tráng, rau sống, rồi cả nhà lại cùng quây quần ăn qua loa xong bữa. Nhà Dì chỉ bị bay tôn chái bếp, nhưng hai nhà hàng xóm thì sụp tường và tốc mái, chúng em ghé qua thăm và biếu mỗi nhà hai trăm ngàn, xong lại tiếp tục lên đường, không ra chợ Quảng Huế mà đi đường tắt qua ngả Hòa Cầm, Tuý Loan. Dọc đường nhìn thấy nhà cửa và cây ngã đổ ngổn ngang, hầu như không có nhà nào còn nguyên vẹn, có nhiều nhà chỉ còn là đống gạch vụn, vì xóm nhà cách đường lộ mấy khoảnh ruộng nên chúng em chạy luôn. Gần đến ngả ba Hoà Cầm thấy một chị trung niên quần áo lấm lem bồng đứa con nhỏ ngồi trên đống tôn tre bừa bộn, Chinh dừng xe lại hỏi thăm thì mới biết chị tên Nguyễn thị Thúy nhà sụp đã năm ngày rồi mà chẳng nhờ cậy ai được – vì ai nấy đều bận lo cho gia đình mình – đành phải lót nghiêng hai tấm tôn, để hai mẹ con buổi tối chui vào đấy ngủ với manh chiếu cũ, Chinh đưa tặng chị hai trăm ngàn, chị cầm tiền tần ngần, mắt ngấn lệ. Chúng tôi chào chị để đi tiếp, chị đứng trông theo thật lâu chắc chị đang nghĩ không hiểu chúng em là ai, từ đâu đến mà cho thị tiền như thế ? Mươi phút sau chúng em lại nhìn thấy một bà cụ già ngồi trên chiếc giường tre trong căn chòi trống hoác, nơi đây thuộc thôn Phú Sơn Tây xã Hoà Khương. Bà cụ cho biết tên là Lê thị Ðiền, bảy mươi ba tuổi, sống một mình trông nhờ từng miếng cơm của xóm giềng. Chúng em biếu cụ năm trăm ngàn, cụ cầm mấy tờ giấy bạc, lật qua lật lại, có thể lòng Cụ không tin đây là tiền thật, chúng em nói rõ cho cụ biết mệnh giá từng tờ bạc, cụ cầm tay Chinh đưa lên mũi hôn hít rồi khóc ròng…
- Tội nghiệp thật !
- Trời đã xế chiều nên hai cha con em cùng cậu Lý dong xe chạy về phía Ðà Nẳng, hai bên đường cây cối gảy ngổn ngang, nhà cửa sụp đổ, lổng chổng mớ gạch cùng gỗ, tôn nằm trên những chiếc giường, bàn ghế cùng bao nhiêu thứ lộn xộn chưa được dọn dẹp. Bầu trời còn nhiều mây, chút nắng hanh cuối thu như soi xuống lạnh lẽo cùng cảnh hoang tàn làm chúng em cảm thấy bùi ngùi. Trong những đống đổ nát đó có nơi thấp thoáng bóng người, nơi thì yên vắng có thể chủ nhân đã tạm lánh đến một nơi nào đó. Chạy về đến Liên Chiểu, dừng xe bên này đường sắt một lát, nhìn quanh rồi lại quành xuống phía nam cầu Nam Ô, về ngả tay phải hướng từ Ðà Nẳng đi Huế, nhìn ngút mắt những đống đổ nát hoang tàn, chúng em để Lý ở lại giữ xe, cha con em lội vào trong những lối đi nhỏ, quan sát và đem tiền tặng cho 8 gia đình mỗi người ba trăm ngàn. Nghe tin, bà con các nơi xúm nhau lại nắm tay, kéo áo cha con em, bảo ghé xem nhà tôi chỗ này, nhà tôi chỗ kia.., làm cha con em bấn lên, sợ sự ồn ào làm vang động đến nhiều nơi khác, nên vừa giải thích vừa lo rút lui ra khỏi xóm. Mặc dù em đã phân trần cho biết « chúng em nhân dịp đi thăm ông chú ở gần đây, thấy bà con hư ha.i nhiều nên còn chút ít tiền gởi tặng gọi là chia xẻ cùng nhau trước cơn hoạn nạn, nhưng sự thiệt hại thì quá lớn, bà con ta quá đông trong khi tiền bạc của chúng tôi chẳng có là bao nhiêu. nên không thể giúp cho đồng đều nổi, xin bà con thông cảm.
 
Mặc dù đã nói thế song vẫn phải vừa giằng co vừa chạy lui. Nhìn trời cũng đã sắp tối, nên chúng em đành phải bỏ Thanh Bình và Thanh Khê mà trực chỉ về phía quận Sơn Trà, bên kia sông Hàn, nơi đây có lẽ là điểm đầu tiên cơn bão từ biển ập vào nên hầu hết nhà cửa bị bay mất mái, tường đổ sập ngổn ngang, đồng bào ở đó kể lại : sau cơn bão quang cảnh giống như trải qua một trận mưa bom ác liệt. Bên vệ đường một ông cụ đang cắt nhỏ mớ rau muống biển cho mấy con thỏ ăn trong chiếc giỏ lưới bằng sắt. Ngước đôi mắt đục mờ nhìn chúng em, ông cụ bảo : suốt cuộc đời tôi chưa bao giờ thấy một trận bão nào lớn đến như vậy, gió hất tấm tôn bay lên cao rồi cuốn tròn lại bay xuôi bay ngược trên trời, tôn bay đầy như máy bay rải truyền đơn hồi xưa.

 
3-
- Hello chú Lành
- Em đây anh
- Sao cắt phone bứt ngang vậy ?
- Phone em tự nhiên mất tiếng, không nghe được,
- Thì bây giờ kể tiếp đi,
- Bây giờ thì em mất hứng rồi anh à, không dông dài được nữa, giá như hôm qua mà có anh đi, anh mới nhìn thấy tận mắt những cái thê thảm của dân nghèo miền Trung mình, không có năm nào không bão, không lụt, trận bão năm này là khủng khiếp nhất, tuy nó không có diện rộng, nhưng tập trung lại một khu vực Ðà Nẳng nên sức mạnh lại tăng lên gấp bội, không làm suy suyển khu nhà giàu, mà chỉ khiến cho nhà nghèo càng nghèo thêm. Ðại để hôm qua chúng em mới cho hết số tiền ba triệu rưởi, em định ngày mai lại đi tiếp, giúp sớm cho bà con được ngày nào quý ngày đó, rất nhiều nhà không có gì để ăn trong lúc này vì mất sạch. Bà Quý, bà Tám cũng mới nhắn em đến lấy tiền, lần này em định liên hệ với chính quyền để dễ dàng trong việc cho chác,
- Ðừng đừng, chớ dại đó Dính với chính quyền thì mệt lắm, họ sẽ hỏi chú là tiền này ở đâu, do ai cho, sao không giao cho chính quyền phát ?..mà chắc chú cũng dư biết khi tiền vào tay các ông ấy thì đến lúc người dân nhận chẳng còn được bao nhiêu, dính chỗ này, chỗ kia, sứt mẻ hao mòn…
- Ờ, em cũng có nghĩ đến điều này, nhưng không nhờ chính quyền thì thế nào cũng bị chụp giựt, tranh giành, mình lấy đâu chia cho đủ,
- Tôi đề nghị chú làm theo cách này nè, chú đừng xuống vùng gần thành phố, mà nên thăm vùng xa ngõ trên quê như Bà Nà.., mấy thôn xã vùng cao của Hoà Vang, nơi đó ít ai tới, chính quyền hay những người hảo tâm cũng chỉ thường đi gần gần thành phố để thăm hỏi, cứu trợ, mình ráng vô sâu một chút, ba người vừa dắt xe đi bộ, giả vờ hỏi thăm, tìm kiếm người bà con của mình, để dạo lòng vòng quan sát, ghi nhận chỗ nào đáng giúp nhất, rồi sau đó ra ngoài, hai người ở lại coi xe, còn một mình chú lặng lẽ quay lại đưa tiền lúc không có đông ngưòi, thế là yên.
- Dạ, anh nói có lý đó, mai em sẽ áp dụng theo cách này mới được. À mà thôi, anh đừng gọi điện thoại chi cho tốn tiền, tối mai về em sẽ ghi lại mọi việc rồi sẽ nói Chinh gửi email cho anh liền,
- Cảm ơn chú, cho tôi gửi lời cám ơn Lý và Chinh đã cùng chú vất vả trong ngày qua, có thể phải đi đến vài ba trăm cây số phải không ? Chú bồi dưỡng cho Lý một trăm ngàn đi nghe, còn phải nhớ ghi chi phí xăng dầu ăn uống dọc đường trong mấy ngày đó, chúng tôi sẽ bồi hoàn lại đầy đủ nhé. Bye chú.

4-

Tối qua chú Hát ghé nhà, chú là con bà Hoài, chị dâu anh Ðấu. - Chắc anh còn nhớ anh Ðấu, hồi xưa cũng là học sinh Trần Cao Vân, tốt nghiệp đại học y khoa Huế, sau về làm việc tại các bệnh viện Ðà Nẳng – chú Hát lấy vợ đâu ngoài Hoà Vang, thỉnh thoảng về thăm quê thường ghé lại thăm Má và chúng em, từ ngày Má mất ít thấy chú ghé lại. Lần này thấy chú có vẽ già đi nhiều, có lẽ vì công việc làm ăn không được thoải mái cho lắm. Vừa vào đến cửa, chú Hát cười chào :
- May mắn quá, trong xóm mình không hề chi cả, tui mới về hồi trưa, ngoài Ðà Nẳng bão lớn lắm, nhà cửa chỗ làng tui ở coi như sụp đổ hết chín mươi phần trăm, nhà nào không sụp thì bay tốc mái, ngói tôn chi cũng không chịu nổi.
- Chú ở khoảng nào mà bị nặng vậy ?
- Thì hồi đó tui lấy vợ quê thôn An Sơn xã Hòa Ninh, Hoà Vang đó, chỗ này là xã thuộc miền núi, dọc theo chân đường lên núi Bà Nà, cách Ðà Nẳng hơn hai chục cây số.
- Hôm qua cha con tôi có đi Ðà Nẳng thấy dưới này bị bão nặng, nghe nói tâm bão ở dưới này mà ?
- Ðúng là bão vô Ðà Nẳng gặp núi Sơn Chà cản lại, nên nó né lên phía bắc, dồn hết sức mạnh thổi theo một luồng, xéo nát những làng xã từ bãi biển Thanh Bình, Thanh Khê dọc theo chân núi, bọc dưới chân đèo Hải Vân lên ngả Bà Nà, nên xã tui cũng bị nặng không thua gì dưới Sơn Chà, Thanh Khê.
- À , vậy thì bao giờ chú mới trở về lại ngoài đó ?
- Mai tui về lo dọn bớt cây cối gảy đổ rồi mới tính dọn đến căn nhà tui, mấy bữa nay lo giúp chôn cất bà già vợ chết vào bữa bị bão, nên chưa lo gì cho nhà mình, mới che năm sáu tấm tôn cho vợ con chui đỡ, về trong này kiếm ít gạo để ăn, chớ sắp đói đến nơi rồi.
- Ủa, bác gái bị sao vậy ?
- Thì ngay bữa đó gió bay tốc mất mái nhà, ông già thì nằm một chỗ, ổng bị mù cả hai mắt, cụt chân nên có xoay trở gì được đâu, thằng em bà vợ tui ba mấy tuổi nhưng bị tâm thần, mát mát khùng khùng cũng ở chung đó, mà có làm được việc gì đâu, bà già thấy gió bay mái nhà, nên tính chạy qua nhà anh Hai ở phía trước, coi thử có chỗ để bồng ông già qua trú đỡ, không ngờ vừa ra cửa thì bức tường trưóc sụp xuống, đè lên bà, thằng con lăn ra cứu mẹ cũng bị đá đè gảy luôn cánh tay…
- Ôi chào, tội nghiệp quá.
- Anh Hai ở phía trước nhà cũng bị sụp nhưng thấy nhà cha mẹ sụp, vội chạy qua thấy bà già bị tường đè ngất ngư, lôi thằng em ra, rồi bới đông ắc lô kéo mẹ ra, bà đã mê man rồi, chị Hai chạy lên báo vợ chồng tui xuống – vì cũng gần, xóm trên xóm dưới – tui đến thì thấy bà mở mắt ra trăn trối : “Chắc mẹ không sống nổi đâu, các con gắng lo cho cha …”chúng tôi nói an ủi là sẽ đưa mẹ đì bệnh viện cứu chửa, nhưng thật ra chẳng biết làm sao hơn, vì cùng lúc này ngòai đường gió bão ầm ầm cây cối gảy đổ ngổn ngang, đâu còn đường sá để đưa bà đi bệnh viện, mà chắc giờ này trạm y tế xã cũng bay mất tiêu rồi, thế là đành nhìn bà rên rỉ nhỏ dần rồi tắt thở.
- Vậy còn bác trai bị tai nạn gì mà đến nổi cụt chân, mù mắt như thế ?
- Thì hồi xưa ổng đi lính địa phương quân, bị mìn ở phía trên Thanh Quýt đó mà.
Nghe chú Hát kể đến đây, em nhìn thấy Toàn cũng như bé Chinh đều rưng rưng nước mắt. Em nghĩ thầm trong bụng, không biết mấy năm nay ông già thương binh ấy có được ai giúp đỡ gì không ? Không muốn khơi sâu thêm nỗi buồn lo của chú Hát, em nói với chú :
- Ngày mai bọn em cũng định đi Ðà Nẳng đây, anh chị Tịnh và cháu nó có gởi chút ít tiền về gíup cho bà con bị nạn, chú chịu khó hướng dẫn bọn em đến thôn An Sơn để tặng ít tiền cho bà con mua gạo mắm sống đỡ, chắc được chớ ?
- Vậy thì còn chi bằng, nhưng mà tiền đâu có cho cho đủ ?
- Bởi thế, may gặp chú đây chúng em nhờ chú giúp coi thử trong thôn ấp những bà con mình ai là những người nghèo khó nhứt cần giúp liền, đúng ra thì ở thôn quê bà con mình ai cũng nghèo, cũng đáng giúp cả nhưng tiền bạc anh chị cùng cháu gửi về chỉ có giới hạn, nên chỉ là một số an ủi tượng trưng mà thôi.
- Ðể tối nay tui về nhắm thử coi, tui lựa lọc rồi mai sẽ cho anh biết, à mà ước chừng anh có thể giúp được bao nhiêu gia đình ?
- Thưa chú chọn giúp cho chừng vài chục gia đình thiệt nghèo để mình tặng quà, may ra có dư thì mình cho thêm vài ba chỗ khác nữa.
- Sáng mai mấy giờ anh đi ?
- Dạ chắc đi sớm về sớm cho khoẻ, chú lại đây rồi đi luôn cho tiện, tôi sẽ nói Lý chở chú bằng xen Honda của nó.
- Không được đâu, tôi sẽ lại anh sớm, rồi tui về đón xe đò Tiên Phước xuống đi thẳng về ngả ba Huế, từ sáng đến giờ tui đi xin được gần hai bao gạo, đem về ăn, còn chia bớt cho mấy nhà đang thiếu gạo ở gần nhà tui.Mai mấy anh em cứ đi, tôi sẽ về sau, chắc trễ nhưng tui ghi tên mấy nhà đáng cho, anh ra đó có vợ tui nó biết hết mà, nó sẽ dẩn đi .

Thế là tình cờ mà chúng em không cần phải áp dụng cách “đi tìm người nhà” nữa, mà có sẵn người biết rõ tình hình thiệt hại của trận bão tại một thôn xóm chân núi nghèo nàn, để có thể đến nơi tặng chút quà an ủi.
Lý xuống thật sớm. Bà xã nhà em biết chừng, nên đã lo nấu nồi cơm nóng hổi với tô dưa cải kho thịt ba chỉ, để sẵn trên bàn cùng dĩa mắm thơm thật cay. Ba bà con em vội ăn rồi lên đường, Theo lời chỉ dẩn của chú Hát, chúng em phải gần mười giờ sáng mới tới được thôn An Sơn. Năm sáu ngày sau cơn bão mà khung cảnh làng xóm nhìn tang thương, xơ xác như mới đâu hôm qua. Cây cối đổ vẫn còn ngổn ngang, người ta chỉ lo dọn dẹp theo các lối đi, những mái lều tạm che trên những đống xà bần đổ nát, nơi cao nơi thấp, thấp thoáng bóng người chui ra chui vào, trông vừa lặng lẽ, vừa buồn thảm. Hỏi thăm tìm đến nhà chú Hát, thím ngạc nhiên nhìn chúng em và khi nghe biết, thím tỏ vẽ mừng rỡ vội vàng đi lấy gạo nấu cơm, nhưng chúng em từ chối bữa ăn, nhờ thím dẩn đến nhà người cha của thím. Thím rưng rưng nước mắt :
- Ông già còn sống đó mà nói thiệt cũng tội, như người chết rồi, chẳng nói chẳng năng gì.
 

Bước vào túp lều nhỏ, nhìn thấy hai cái bàn thờ lạnh lẽo khói nhang, bọn chúng em cũng muốn khóc. Bà nội mới chết chưa mãn tang, thì tiếp theo bà mẹ già cũng ra đi trong cơn bão, bỏ lại người cha tật nguyền cụt hai chân, mù mắt và thằng con trai vừa câm vừa bị tâm thần, với cánh tay đang bó bột, ú ớ chào những người khách lạ. Vợ chồng ông con trai cả, nhà ở gần đó thấy chúng em ghé lại cũng vội vàng chạy đến. Em lấy ra một triệu đồng, đặt lên bàn thờ rồi thắp một nén nhang khấn nguyện, cầu cho hương linh hai cụ đã khuất sớm vãng sinh về chốn vĩnh hằng. Ông con trai cả nhìn thấy vậy, liền đến đỡ ông già ngồi dậy trên chiếc giường tre đã gảy cả bốn chân. Ông cụ lắc lắc cái đầu, như muốn nói điều gì đó nhưng rồi cúi đầu im lặng, có lẽ vì bị điếc cả hai tai nên ông ta cũng chẳng nghe chúng em nói gì, theo bác Cả cho biết thì hồi xưa ông cụ là lính Ðịa phương quân, trong một chuyến hành quân vùng Thanh Quýt cuối năm 1974, ông bị mìn cụt hai chân, mù cả hai mắt, tai vẫn còn nghe được, cho đến khoảng mười năm trở lại đây ông cụ bị điếc dần và hiện tại thì điếc hẵn, không nghe được chút tiếng động nào.
 

Nấn ná trong căn lều này cũng khá lâu, sợ không kịp thì giờ, nên chúng em vội từ giả theo chân thím Hát đi vòng trong xóm. Nói là xóm chứ thật ra từ nơi chúng em bước chân ra khỏi lều của ông cụ thương binh Nguyễn Tiến, nhìn mút xa là những đám cây đổ, che lên những căn nhà đổ nát, những tấm tôn tựa vào mấy cây cột tre, hoặc những bức tường đã sụp hết một phần, đó là nơi tạm trú của hầu hết những bà con ta sau cơn bão.Thím Hát cho biết trước đây nhìn đâu có thấy xóm trên, mà bây giờ cảnh quan giống như khoảng đồi trọc, đứng một chỗ cũng có thể đếm được có bao nhiêu căn nhà.
 

Dựa theo danh sách của chú Hát đưa cho hồi sáng sớm, em giả vờ như không biết dò hỏi mấy tên người, chị Hát chắt lưởi nói :
- Sao anh biết mấy người đó, họ thuộc loại nghèo nhứt xóm đó, tội nghiệp lắm.
- Thì tôi có hỏi thăm trước rồi mà.
Vậy là có thể tin tưởng được, em bảo Chinh lấy ra ba trăm ngàn tặng cho thím Hát, rồi mới nói nhờ thím dẫn đi tặng cho những bà con nghèo khác. Từ nhà bà Ðặng, ông Châu, bà Lan, bà Thịnh, ông Liễu, ông Hoan, ông Kỳ ở xóm dưới xong lên nhà ông Bích, ông Tòng, bà Lê thị Thành, bà Bùi thị Chu, Ðặng thị Hương, Lê thị Khanh, ông Trần Bích;…tổng cộng 28 nhà với số tiền là ba triệu sáu, đồng đều mỗi người hai trăm ngàn.
Vừa xong căn nhà cuối trong danh sách, bước ra em gặp ngay một bà cụ đón đường em lại hỏi ;
- Sao mấy anh biết bọn tui thiếu đói mà đem cho tiền ?
- Dạ chúng cháu cũng có bà con ở trên này.
- Hèn gì, xưa nay có giúp đỡ cứu trợ chi, họ cũng chỉ giúp gần gần dưới phố. quay phim chụp hình chi cũng dưới đó, chớ có ai thèm đi thăm thú giúp đỡ đến vùng xa này mô !
 

Khoảng hơn ba giờ chiều chúng em quay về Ðà Nẳng, vừa khát nước vừa đói nên ghé vào quán bên đường, ăn mỗi đứa một dĩa cơm bình dân với giá bốn ngàn đồng, vài lát thịt heo kho bỏ chung trên cơm với mươi cộng rau muống xào, đang đói nên ăn cũng ngon lắm. Dọc đường qua Hoà Ninh, Sơn Phước ghé hai căn nhà sụp đổ nặng, tặng mỗi nhà ba trăm ngàn. Ðịnh ghé vào xóm này cho thêm, nhưng thấy gần đó có người đang nhìn ngó chúng em, rồi rút điện thoại di động ra gọi ai đó, sợ có gì rắc rối nên chúng em cũng bỏ dở dự tính, dong xe chạy luôn về Hoà Khánh.
 

Trời cũng khá chiều rồi, ghé vào xóm nhà phía sau tượng Phật, tình cờ gặp chú Tài quê Tiên Phước lấy vợ về ở ngoài này, nhà chú cũng cùng chung số phận sụp đổ trăm phần trăm, chúng em biếu ba trăm ngàn đồng, rồi theo chân chú ghé thăm thêm được mười ba gia đình nữa, người ba trăm, kẻ hai trăm tổng cộng hơn ba triệu, riêng ông già Tính trên sáu mươi tuổi, phải nuôi hai cháu mồ côi, chúng em tặng cho ông nửa triệu đồng. Lay hoay mãi, trời tối lúc nào không rõ. Kiểm lại thấy túi đã vơi, chúng em ra về mà lòng cứ bâng khuâng như còn muốn đi tiếp.

Nhìn đâu cũng thấy tang thương, đổ nát, mùa đông sắp về, rồi đây gió, mưa sẽ đổ xuống, những cơn gió cắt ruột sẽ gào thét trên những đống vữa vụn hoang tàn kia, những con người nghèo nàn đau khổ này sẽ biết chui rúc vào đâu ? Bóng tối trước mặt đang phủ xuống, mười lăm triệu đồng mà cháu Nhã đã gửi cho, chúng em đã lặn lội mang đến tặng cho từng nhà trong cơn khốn khổ, cũng là niềm an ủi nhỏ, mang đậm chút tình, tuy không đủ thấm vào đâu trong hàng vạn gia đình đang ngắc ngoải saun cơn bão, song giống như hạt cát trong đại dương, cộng thêm với nhiều hạt cát từ khắp các nơi mang cả những tấm lòng, những xẻ chia nhân ái, trôi về trong thấm đẫm tình người, tìm đến nhau trong cơn hoạn nạn, sẽ là những lời ru khe khẻ, dịu dàng xua bớt những khổ đau trên những cuộc đời bất hạnh.
 

Xin cám ơn những trái tim nhân hậu, tuy ở những nơi rất xa xôi, nhưng vẫn như nhìn thấy được những mảnh đời khổ lụy, trong cảnh trầm luân bởi thiên tai cùng nhân hoạ, mà sớm hướng lòng về với quê hương miền Trung thương yêu, giúp nhau chén cơm, hạt gạo trong cảnh ngặt nghèo.

Cẩm An Sơn

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2007

MỘT CHÚT KỶ NIỆM

Truyện ngắn CẨM AN SƠN

Tết Nguyên đán nhằm vào Thứ Sáu, nên Hội Chợ Tết tại địa phương tổ chức vui chơi liền trong ba ngày. Lẽ ra, Thuyên phải đi làm luôn cả ngày Thứ bảy, chủ nhật vì hàng rất nhiều, nhưng viên Giám Đốc người Mỹ hiểu tâm lý người Á châu, nên tuyên bố cho tự do, ai muốn nghỉ trong mấy ngày đó thì nghỉ, không bắt buộc phải đi làm. Với những người có gia đình, thì đây là lúc đoàn tụ, vui với cái Tết cổ truyền của Dân tộc, cũng mua bánh trái, thịt thà và tổ chức đón giao thừa, có nhà còn đốt pháo để tưỡng nhớ đến quê xưa. Với Thuyên cũng nhân cơ hội này nghỉ xả hơi vài ngày cho thoải mái, vì công việc của anh suốt năm qua luôn bù đầu bù cổ, không có được một ngày nghỉ. Làm over-time luôn thì cái check nào cũng nặng, nhìn con số cảm thấy vui trong bụng, nhưng buổi sáng khi nghe tiếng đồng hồ báo thức lại mệt mỏi quá, chẳng muốn ngồi dậy.

 
Sáng nay mặc dù không để alarm, nhưng cái đồng hồ sinh học trong Thuyên cũng đã đánh thức anh lúc hơn bốn giờ. Tự nhiên giật mình thức giấc, nhìn đồng hồ chỉ 4 giờ 18 phút, anh chợt nhớ hôm nay mình được nghỉ. Khoan khoái, Thuyên duỗi chân tay, trở người nằm ngửa, hít một hơi dài rồi nhắm mắt lại, tìm giấc ngủ tiếp. Phải mất khoảng vài chục phút sau anh mới ngủ lại được, nhưng giấc ngủ không sâu, mà cứ chập chờn, lơ mơ, nửa mê, nửa tĩnh.

Thuyên lái xe ghé quán cà phê Dạ Thảo. Quán đầy người, phần đông là lớp trẻ. Tìm quanh quẩn mới có được chiếc ghế trống, ngồi chung với ba người lớn tuổi. Chiếc bàn được kê ngoài hiên, dễ dàng cho việc hút thuốc. Dễ chừng có hơn năm rồi Thuyên mới ghé quán cà phê, thường ngày anh uống vào sáng sớm và giờ break ở chỗ làm. Cà phê Mỹ nhạt hơn ở các quán Việt Nam. Tiếng nhạc ồn ào lẫn với tiếng nói chuyện, cùng khói thuốc làm Thuyên cảm thấy hơi nhức đầu. Anh nghĩ, phải tìm một không khí khác, và anh chợt nhơ’ đến họâi chợ Tết.

Mới khoảng nửa buổi mà nắng đã mạnh. Bầu trời trong veo chẳng có chút gợn mây, Thuyên nhớ đến những cái Tết ở quê nhà. Suốt mấy chục năm, mỗi cái Tết là mỗi cái kỷ niệm, bàng bạc trong lòng Thuyên với những niềm vui, những chuyện buồn như ăn sâu vào tâm hồn, để rồi thỉnh thoảng như một cuốn phim từng lúc mở lại những hình ảnh thật rõ nét, khiến anh bồi hồi. Có tiếng một người con gái :
- Phía trong kia còn một chỗ trống kìa, chú vào đó đi.
Thuyên nhận ra tiếng Mai, cô bé cùng làm trong line. Anh đưa xe vào parking,
rồi bước xuống đất. Mai mặc quần jean với chiếc áo ngắn tay màu xanh. Nàng hỏi :
- Không có cô đi chơi xuân với chú sao?
Thuyên cười :
- Cô mắc bận đi làm
- Vậy thì.. Mai đi với chú nhe.

Thuyên chợt cảm thấy một chút vui, pha lẫn chút buồn trong lòng. Làm việc chung với nhau, Thuyên biết Mai tuy đã ba mươi sáu tuổi nhưng vẫn sống độc thân. Từ sau ngày chồng Mai chết trên biển trong chuyến ghe vượt biên đã sáu năm, Mai vẫn âm thầm sống một mình. Mai cũng hiểu Thuyên, một trung úy biệt động quân bị bắt đi cải tạo, hơn năm năm sau được thả về thì người vợ chưa cưới đã lấy chồng cán bộ, anh canh me theo ghe vượt biên từ Cà mau. Bạn bè thường ghép hai người với nhau, đòi ăm đám cưới, cả hai cũng có cảm tình nhưng vẫn cứ lửng lửng lơ lơ, chưa chịu bước tới. Thuyên thì cảm thấy mình già, năm mươi mốt tuổi rồi còn gì, so với Mai anh thấy tuổi tác hai người quá chênh lệch, nên vẫn thường tự ti mặc cảm.

Vừa vào trong hội chợ, hai người gặp rất nhiều bạn cùng hảng. Thế là Mai đi theo đám bạn gái, còn Thuyên bị mấy người bạn lớn tuổi kéo đi hướng khác.
Hội chợ năm nay được tổ chức trong khuôn viên một trường College. Khung cảnh nơi đây thật đẹp, vị trí ngôi trường nằm giữa trung tâm một lòng chảo, như một thung lũng nhỏ, chung quanh là những ngọn đồi thấp với hàng ngàn căn nhà xinh xắn phơi mình dưới ánh nắng. Những hàng cây xanh, những đường lộ uốn vòng vèo giống như một bức tranh. Những giảy xe đậu thứ tự trong những bãi parking rộng lớn với đủ các màu sắc, rực rỡ. Càng về trưa ngừơi đi chơi càng đông. Những túp lều vải là những gian hàng dựng theo những hàng dài theo lối đi. Nơi này bán đồ ăn, nơi kia trình bày, triển lãm những hình ảnh hoạt độâng cộng đồng, những gian vui chơi dành cho trẻ em. Trong hội trường gần đó, chương trình văn nghệ, ca nhạc dường như đã bắt đầu. Tiếng ca tiếng hát bên trong vọng ra, cộng với tiếng hát từ khắp các nơi cùng cất lên, ồn ào. Thuyên có cảm tưởng như đang dạo chơi trong mùa xuân nơi quê nhà.

Ba người bạn rủ anh đi xem ca nhạc, Thuyên từ chối. Anh lang thang dạo chơi quanh quẩn, xem khắp một vòng, cuối cùng ghé vào gian hàng lô tô ngồi nghỉ chân. Tiếng rao lô tô vọng ra trong máy, với những câu hát, nhũng câu hò dí dỏm làm Thuyên cũng vui lây, anh móc bóp lấy hai mươi đồng mua một vé, và ngồi đợi. Xuất xổ vừa rồi với lô trúng với khá nhiều đồ lỉnh kỉnh, một đầu máy video, một microway và một lố đồ nhà bếp. Lô sắp tới chỉ là một chiếc TV 32 inches trị giá khoảng bảy tám trăm gì đó. Thuyên chờ đâu khoảng một lúc thì tiếng hô cũng bắt đầu cất lên, thật rộn ràng. Anh lơ đảng ngồi nghe, có cô bé học trò khoảng chín mười tuổi đứng cạnh nhìn vào tấm vé và nhắc anh ;
- Chú dò đi chớ, Ba số rồi đó..

Thuyên cúi xuống nhìn tấm vé. Cô bé đã bỏ vào ô số đã xổ mấy vỏ hạt dưa đỏ, có năm con số đã gọi và cũng đã có được 4 con số cùng nằm trên một đường thẳng. Cô bé đọc lên nho nhỏ :
- Ba muơi sáu, ba mươi sáu….
Tiếng hô ra rả của người thanh niên cầm micro
:” đường đi qua thác qua ghềnh. Em đi một mình sao chẳng chờ ta… là con số ba …- tiếng hô chậm lại rồi kéo dài ra..là ba mươi….ba” Cô bé lại ồ lên một tiếng :
- Chút xíu nữa, hụt rồi chú ơi.
Thuyên cũng nghe lòng mình vừa vui, vừa hồi hộp theo cô bé..
“ Dầu cho khốn khổ, khó nhọc mặc lòng, bỏ kiếp long đong…. Bỏ kiếp long đong.. ta về đây nương náu.. là con..là con ba mươi ..sáu”
Con bé nhảy hẩng lên la to ; ba sáu, đúng rồi đúng rồi..
Mọi người đều quay đầu nhìn về phía Thuyên và đứa bé. Nhưng ở phía đầu bên kia cũng có hai đứa bé khác la lớn : “ Đây mới trúng thiệt nè” . Thuyên đứng lên, anh cầm tấm vé đi về phía quầy hàng đưa cho người chủ kiểm lại. Người thanh niên lần lượt dò lại từng số và nói “tấm vé anh đúng rồi đó”. Hai đứa bé khi nảy cũng bươn bả đem tấm vé lên đưa cho anh thanh niên. Sau khi kiểm lại, anh tuyên bố :
- Cả hai vé đều đủ cả năm số, một tấm ở hàng ngang và một tấm ở hàng dọc.
- Vậy là mấy chú cháu mình cùng trúng cái TV rồi,


Thuyên cười vui nói với hai đứa bé. Hai đứa bé, một trai, một gái khoảng mười bốn mười lăm tuổi, ngẫng lên nhìn anh hơi ngạc nhiên :
- Hai người cùng trúng, làm sao bây giờ chú ?
- Thì chú cháu mình khiêng ra ngoài kia rồi mượn cái dao cắt làm đôi, mỗi bên một nửa chớ khó chi.
Hai đúa bé cùng cười vì biết anh nói đùa.
Đứa bé gái nói với Thuyên :
- Chú chờ cho cháu một chút, cháu đi gọi anh cháu.
Thuyên nói với người chủ quày hàng gởi lại chiếc máy, lát nữa sẽ nhận, rồi anh quay lại với hai đứa trẻ :
- Bây giờ chú cháu mình ra ngoài kia kiếm cái gì ăn mừng đi. Trưa rồi, đói bụng quá trời.
Thấy hai đứa bé ngần ngừ, anh baỏ :
- Yên trí đi, chú bao mà.Thuyên dẩn hai đứa bé quay ra tìm cô bé đứng cạnh anh lúc trước. Con bé đứng với một người đàn bà còn trẻ, có lẽ là người mẹ, ánh mắt tươi vui.
Anh cầm tay nó và nói với chị :
- Xin phép chị cho cháu đi ăn mừng với chúng tôi nhé. Nhờ cái hên của cháu mới trúng đó. Người mẹ cười :
- Con đi với chú đi, lát nữa rồi trở lại đây, mẹ chờ.

Bốn người đến gian hàng mỳ Quảng, Thuyên hỏi :
- Các cháu tên gì?
- Cháu là Tiffany, con bé nhỏ nhất nói.
- Cháu là Vân, em trai cháu tên Việt.
- Thế bây giờ các cháu có đồng ý ăn mỳ Quảng không ?
- Đồng ý..thích lắm.. cả ba cùng trả lời.
Trong lúc mọi người đang ăn thì một cậu thanh niên bước vào,
Vân ngẫng lên :
- Anh Hải, ăn mỳ Quảng với bọn em đi. Chú đây đãi này.
Việt xen vào :
- Anh đi đâu mà lâu vậy, bọn em với chú chơi lô tô trúng cái TV.
- Thật không?
Người thanh niên vừa nói vừa nhìn Thuyên rồi gật đầu chào
- Thưa chú.

Thuyên nói :
- Cháu ăn mỳ luôn nhe. Anh quay vào trong, gọi : cho thêm một tô nữa chị ơi.
Hải nói như phân trần :
- Sáng giờ cháu đi xin tiền cho học sinh nghèo. Bọn cháu có bốn đứa sinh viên đồng hương xứ Quảng định kiếm tiền gởi về quê gíup làm học bỗng cho học sinh nghèo mấy huyện miền núi.
- Hay, ý kiến hay lắm. Thuyên khen.
- Tội lắm chú à. Năm rồi cháu có về quê Hiệp Đức cháu thấy thê thảm lắm..
Đang nói bỗng Hải ngừng lại, nhìn chăm chăm vào mặt Thuyên :
- Cháu xin lỗi, chú có phải chú Thuyên không? hồi xưa chú có đi cải tạo tại trại Na-Sơn phải không ?
Thuyên như giật mình ngừng ăn nhìn Hải, sửng sốt :
- Cháu…, cháu là ai mà biết chú. Chú là chú Thuyên đây, sao..sao cháu gặp chú ở đâu mà biết rõ vậy ?
- Đúng rồi, chú không nhớ cháu là phải. Mười mấy năm rồi còn gì…

Người thanh niên trầm ngâm như hồi tưởng. Cả ba đứa bé nghe Hải nói thế cũng ngạc nhiên ngừng ăn, ngẫng lên, chờ đợi.
Giọng Hải thấp xuống :
- Hồi đó lúc cải tạo, chú thường đi cắt tranh cho trại gần nhà cháu. Mẹ cháu bảo cháu đem khoai đem sắn tiếp tế cho chú ăn thêm. Sau đó chú làm quen với mẹ cháu, một thời gian trại biết được nên phạt kỷ luật chú. Nghe nói chú bị cùm kẹp cả mấy tháng trường…
- À, thì ra cháu là con của bà Hằng. Hồi đó cháu mới có bảy tám tuổi, ốm nhom ốm nhách, bây giờ cháu cao lớn như thế này làm sao chú còn nhận ra được. Vậy mẹ cháu có khoẻ không?
- Dạ, mẹ cháu khoẻ. Hai mẹ con cháu vượt biên rồi qua đây cũng hơn mười năm rồi. Mẹ cháu cũng thường nhắc tới chú luôn, không ngờ chú cháu mình cùng ở chung trong một thành phố mà không biết, không gặp được.
Trong sâu thẳm của tiềm thức, những kỷ niệm vừa đắng cay, vừa ngọt ngào chợt hiện về với Thuyên, như một cuốn phim chậm chạp quay lại. Vào trại chưa được hai năm Thuyên được tin Yến đi lấy chồng, anh chỉ buồn có vài bữa rồi cũng quên đi, cũng chẳng oán trách gì Yến, vì ngay bản thân anh, anh cũng thấy trước mặt mình là một tương lai mịt mờ, chẳng biết có được ngày về. Sống lặng lẽ với những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày, Thuyên buông trôi ngày tháng, không than thở, không giao tiếp với ai. Anh được xếp vào loại “con bà xơ”, chẳng ai thăm, ai viếng quà cáp gì. Năm đầu tiên, cha anh có lên thăm anh được hai lần, nhưng nhìn thấy cha già vất vả, gầy yếu phải lội bộ xa mấy chục cây số, anh không đành lòng, nên bảo cha đừng đi nữa. Nhà thì đơn chiếc, mẹ anh mất sớm, cha anh cuốc cày không đủ miếng cơm manh áo, nên anh cứ thỉnh thoảng lại xin được viết thư về trấn an cha già rằng con ở đây cơm ngày ba bữa, không đói khát gì, chỉ mong học tập tốt để sớm được trở về với gia đình.

Nhờ cách sống im lặng, nhẫn nhục, Thuyên được cho ra ngoài lao động lẻ, không có công an đi theo. Anh thường đi đốn tre, cắt tranh về cho trại. Anh phải đi càng lúc càng xa trại, đến những nương vườn có dân hồi cư về sinh sống. Một hôm, sau khi đã cắt và trải tranh ra phơi xong, vừa tìm bóng mát ngồi nghỉ thì gặp một thằng bé mang đến cho mấy khúc sắn nấu. Nó nói mẹ nó bảo đem cho chú ăn kẻo chú đói, tội nghiệp. Đó là lần đầu tiên sau bốn năm đi tù Thuyên đã ứa nước mắt cảm động. Anh nghĩ đời vẫn còn đáng sống, vẫn còn có tình thương thầm lặng giữa con người với nhau.

Sau mấy lần như thế, Thuyên lần tìm vào nhà thằng bé, với ý nghĩ gặp để cám ơn nguời đàn bà tốt bụng. Nhà là một túp lều nhỏ, mái lợp tranh, vách được che bởi những cây sậy ghép lại. Tuy đơn sơ nhưng gọn gàng, cũng có một ngăn làm buồng và một chiếc bàn với mấy cái ghế bằng nhựa, thấp chân. Thuyên bỗng nhớ đến những túp lều với những chiếc bàn con để bán cà phê hoặc thức ăn anh đã nhiều lần nhìn thấy ven những đường lộ.

Từ hôm đó Thuyên quen Hằng. Anh được biết trước kia Hằng là giáo viên tiểu học, nàng dạy ở một ngôi trường trong thị trấn Vĩnh Điện, chồng Hằng là thiếu úy thuộc sư đoàn 2 bộ binh, đã tử trận tại Tiên Phước vào năm 72. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Hằng bị đuổi việc, không cho dạy nữa, nên nàng mang con về Hiệp Đức làm rẫy sinh sống. Tuy đã ba bốn năm cần cù với nương rẫy, nhưng dáng dấp của Hằng vẫn không phai đi những nét thị thành. Khuôn mặt trái soan, đôi mắt đen lấp lánh như nụ cười tươi nở ra rực rỡ làm Thuyên choáng váng như vừa được uống một ly rượu mạnh. Cả hai người như gặp nhau giữa bờ địa ngục, bỗng thấy ánh sáng mặt trời chiếu rọi đến. Họ lăn xả vào nhau không cần biết đến những điều đang chờ đợi ở phía trước.

Chỉ một tháng sau Thuyên đút chân vào cùm, với mỗi ngày hai hớp cháo lỏng. Tuy thế Thuyên vẫn thấy mãn nguyện. Ngày anh ra tù tìm lại chốn cũ thì hai mẹ con Hằng đã không còn ở đó nữa. Hàng xóm cho anh biết nàng đã đưa con vào miền Nam sinh sống. Thời gian nằm trong nhà cùm, nghe tin Hằng có đến xin thăm anh mấy lần nhưng không được bọn cai tù cho phép. Thuyên cũng từ giả cha già- ông hiện sống với một cô cháu ngoại mười sáu tuổi – lang thang qua mấy tỉnh Nam Bộ, nhưng vẫn không còn gặp lại “người tình trong đáy vực” (anh tự đặt tên như vậy để nhớ về Hằng). Cuối cùng rồi anh cũng vượt thoát được đến bến bờ tự do.

Hai chú cháu hì hục khiêng chiếc TV lên chiếc xe Van của Hải.
Vân hỏi :
- Chở về nhà mình hả anh Hải ?
- Thì đem về nhà mình chớ còn đem đi đâu. Về nhà rồi lấy dao cắt chia hai mình một nửa, chú một nửa.
- Thôi anh đừng có xạo.

Thuyên cười, góp tiếng :
- Hồi nảy chú cũng nói vậy, mà bé Vân, bé Việt không tin.
Thực ra thì Thuyên đã nói với Hải rằng em đem luôn về nhà mà xài, cho mấy đứa nhỏ nó mừng, phần anh cũng có riêng một cái nhỏ, phòng anh thuê chật chội không để TV lớn được. Trong lòng anh vẫn không quên cái ơn của mẹ con Hải trong những ngày anh tù tội, nên cũng nhân dịp này coi như món quà gửi lại cho mẹ con nàng. Lúc lên xe, Thuyên gọi bé Việt sang xe anh, lấy cớ dẩn đường để anh ghé nhà thăm mẹ Hải.

Lúc đã cài xong seat-belt, Việt nói :
- Nhà cháu với anh Hải cùng một sân với nhau
- Ủa, chớ không phải cháu là em ruột của anh Hải sao?
- Đâu có, chị em cháu với anh Hải là bà con sao đó…, mẹ cháu là em mẹ anh Hải. - À ra là chị em bạn dì đó.

“Vậy là hai đứa nhỏ không phải là con Hằng” Thuyên nghĩ thầm. Một chút băn khoăn đến trong lòng anh, không hiểu từ hồi đó rồi Hằng có tiếp nối với ai không? Anh mĩm cười một mình. Thuyên tự hỏi, nếu Hằng vẫn chưa lấy chồng, chuyện tình cuả anh với nàng ngày xưa sẽ như thế nào ? Thời gian và những bầm dập của cuộc đời sau mười mấy năm sống đơn chiếc, dường như tâm tình Thuyên có nguội lạnh đi nhiều. Anh chợt nghĩ đến Mai, chắc cô bé cũng có nhiều lần nghĩ về mình…
Việt lên tiếng nhắc :
- Quẹo trái đi chú, sắp tới nhà rồi.
Thuyên chợt thấy đàng sau một ngôi nhà ai đó bên đường, có phơi một chiếc áo bông màu tím. Màu chiếc áo chợt thoáng qua, nhưng làm anh nhớ lại thật nhanh đến chiếc áo mà Hằng mặc, trong cái buổi chiều đã rất xa, lần đầu tiên anh đã ôm và hôn nàng.

Chiếc xe vẫn chầm chậm quành vào vuông sân nhỏ....

Cali thu Nhâm Ngọ, 02

Cẩm An Sơn

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2007

Truyện ngắn VỀ MỘT NGẢ NÀO ?

Truyện ngắn Cẩm An Sơn
 
Tuấn ngồi đó với ly cà phê đã nguội. Tiếng hót của con hoàng yến vang lên trong trẻo giữa buổi sáng thứ bảy vắng lặng, làm anh thấy bâng khuâng, nhớ về những tháng ngày xưa hồi còn bé nơi quê nhà. Hồi đó ba Tuấn cũng nuôi một đôi chim yến, hai con chim màu vàng, nhỏ nhắn xinh xinh, nhưng cả năm rồi mà vẫn không nghe chim hót, sau đó hỏi lại ông chú, ông ta cười bảo:

- Tiếng hót của chim yến như là tiếng gọi bạn tình, nên khi nhốtchung cả chim trống mái vào một lồng thì chúng chỉ cần nói chuyện với nhau là đủ rồi, cần gì phải hót phải gọi nữa.
 
Và đúng như vậy, sau khi tìm được một chiếc lồng khác, ba Tuấn đã nhốt chúng riêng ra, con chim trống cất tiếng hót vang. Tiếng hót trong veo, ngọt ngào vang lên trong nắng sớm, như chào, như đón muôn vàn cỏ hoa đang xanh tươi mơn mởn trong vườn.
Bây giờ thì tiếng hót của con chim như là những gợi nhớ, gợi nhớ những kỷ niệm lúc gần lúc xa, sau gần mưòi năm anh rời bỏ quê hương đến định cư nơi xứ người. Tuấn cũng giống như những bạn bè của anh, khi đến Mỹ là lăn đầu vào công việc mưu sinh, ban ngày đi làm, buổi tối về phải đi học thêm tiếng Anh, cuối cùng vào trường College kiếm được mảnh bằng Technical thăng tiến thêm cho công việc ở một hãng điện tử.

Trước năm 75 Tuấn mới chỉ là một Thiếu úy trong quân đội, nhưng với nhiệm vụ một sĩ quan tình báo nên anh phải đi tù hơn ba năm, ngày anh trở về mới biết tin gia đình anh đã mất tích trong một chuyến vượt biên. Từ đó Tuấn phải sống lang thang qua mấy vùng kinh tế mới, cuối cùng anh trở về Sài gòn, ngày ngày làm “thợ đụng”cho đến khi cầm được chiếc thẻ IOM ung dung lên máy bay sang Mỹ một mình. Công việc xứ người luôn quay cuồng tất bật như một guồng máy, chạy hoài không ngưng nghỉ, Tuấn thuê một căn phòng nhỏ, chủ nhà là một gia đình người Việt qua đây từ năm 75, thấy anh thui thủi một mình, nên hàng ngày bà chủ nhà nấu thêm phần ăn rồi bới để riêng cho anh, mỗi tháng chỉ trả thêm một trăm đồng.

Bởi cặm cụi đi làm, đi học, gia đình bên Việt Nam chẳng còn ai để phải gởi tiền về giúp đỡ - ngoài một người bạn vong niên đồng đội cũ - nên anh có được đồng tiền dành dụm trong ngân hàng. Sau ba năm, anh mua được căn mobil-home này. Ngôi nhà nhỏ bé, xinh xinh, có mái hiên nhỏ đủ để anh kê một chiếc bàn với hai chiếc ghế ngồi uống cà phê vào những sáng rảnh rổi, mấy chậu hoa và chiếc lồng chim, với con chim hoàng yến như ngưòi bạn tình cất giọng dịu dàng.
 

Hàng tuần, Tuấn ăn cơm tháng có người mang tới, những ngày cuối tuần anh tự nấu ăn lấy, đôi lúc rủ bạn bè tới làm vài món nhậu lai rai với mấy lon bia. Mấy tháng trước, nể tình bạn bè anh cho một bạn trẻ làm cùng hãng về share phòng, nhưng chỉ sau ba tháng anh phải mời đi ở chỗ khác, vì chàng này thích nghe nhạc lớn quá, ồn ào khiến hàng xóm complain. Kể ra có người ở chung nhà cũng đỡ buồn, nhưng đôi khi cũng bực mình không chịu được vì những cá tính khác biệt quá đáng. Sau khi Quang – người bạn share phòng – dọn đi ở nơi khác, Tuấn mới dọn dẹp lại căn nhà cho tươm tất hơn. Anh đã phải bỏ ra mất hai ngày mới dẫy sạch cỏ khỏanh đất phía sau, và anh quyết định tạo một vườn rau nhỏ, với mấy cây ớt, cà chua cùng mấy luống rau thơm.

Mỗi buổi chiều sau khi đi làm về, Tuấn lại ra vườn nhìn ngắm, giá như còn mẹ, mẹ sẽ thích biết mấy được có vườn rau nhỏ. Hồi gia đình đã dọn hẵn vào ở Sài gòn ba mẹ và anh chị em Tuấn sống trong căn nhà bé tí tẹo, sâu trong đường hẻm, dựa lưng vào một căn nhà khác tương tự, mẹ anh vẫn âm thầm chịu đựng sự chật chội, chỉ mơ ước có khoảnh đất nhỏ trồng rau, để nhớ về quê nghèo. Nỗi buồn mất mát gia đình đã làm cho Tuấn tưởng như không còn gượng nỗi sau khi ra tù, song rồi bước đường long đong cực nhọc dần dà làm anh nguôi ngoai, anh chỉ thầm cầu nguyện cho cha mẹ cùng hai đứa em nhỏ được siêu thoát, tránh được những khổ đau của một cuộc đổi đời.

Có tiếng gọi tên Tuấn phía bên kia đường, anh đứng dậy nhìn qua, Trọng - một bạn láng giềng quen biết từ khi anh dọn nhà tới ở đây – nói vọng sang:
- Đi uống cà phê với mình nha,
- OK, chờ tớ một chút.
Anh quay lại thu dọn ly cà phê nguội ngắt của mình, đem vào bỏ trong sink, với tay lấy chiếc áo khoác mỏng, ra ngoài khoá cửa lửng thửng sang nhà Trọng. Tiếng con chim yến lại hót vang, kéo dài ra như đuổi theo bước chân anh.

Trọng vốn cũng là dân HO như Tuấn, quê anh ở Đà Nẳng, định cư sau Tuấn một năm, anh đã có gia đình và một đứa con gái hai tuổi. Trước kia Trọng đi lính ở SĐ 2, là sĩ quan trinh sát, bị thương hai lần, lẽ ra anh có thể được giải ngủ, nhưng tính thích mạo hiểm nên anh vẫn còn tiếp tục ở lại đơn vị cho đến ngày tan hàng, vào trại tù Kỳ Sơn anh bỏ trốn suýt bị bắn chết, rồi chuyển trại sang Tiên Lãnh anh bị cùm cả tay chân suốt ba tháng trường. Nhờ cái tội trốn trại đó nên Trọng được tiếp tục làm kiếp khổ sai đến hơn ba năm – đủ tiêu chuẩn đi HO – trong khi những bạn đồng trang lứa với anh lai rai ra về đoàn tụ với gia đình.
 

Bố mẹ Trọng cũng đi HO, qua Mỹ ngay trong đợt đầu tiên cùng ba đứa em, nên khi Trọng sang thì bố mẹ đã mua được nhà rồi, căn mobil-home-double bốn phòng đủ cho cả gia đình trước sau sống tương đối thoải mái. Gặp lúc kinh tế Mỹ đang lên, các hãng xưởng mở ra thật nhiều nên chỉ sau một tháng, vợ chồng Trọng đã có xe riêng – dù là những chiếc xe cũ của mấy đứa em tặng lại cho anh chị để mua xe khá hơn – và công việc làm ổn định. Từ khi thấy Tuấn dọn nhà đến ở gần, Trọng và vợ anh sang chơi làm quen, và hai vợ chồng thường ghé sang chơi vào những ngày rảnh rổi, Thỉnh thoảng có món ăn nào ngon, đặc biệt, cũng bới sang cho. Bố mẹ Trọng cũng đối đãi với Tuấn như một đứa con trong nhà, nhờ vậy Tuấn cũng đỡ thấy cô đơn khi phải sống một mình nơi xứ lạ quê người. Tuấn với Trọng cùng một tuổi nên cũng dễ dàng thân nhau, mày mày tao tao thân mật.

Khi Tuấn đã ngồi yên vào trong xe, Trọng hỏi bạn:
- Hôm nay mình đi uống đâu?
- Đâu cũng được, Xinh Xinh cho gần,
- Xinh Xinh ồn quá, tụi nhóc nó quậy tùm lum đếch có nghe nhạc được.
- Thì ghé Dạ Thảo đi, ngồi ngoài hiên hút thuốc thoải mái hơn.
Mới hơn tám giờ sáng mà quán đã khá đông, phải mất một lúc lâu lòng vòng Trọng mới tìm được chỗ đậu xe. May mà còn được một chiếc bàn trống ở góc ngoài hiên, hai anh em ghé ngồi vào rồi gọi hai ly cà phê sữa. Cô tiếp viên còn quá trẻ –khoảng mười tám mười chín tuổi – với chiếc váy ngắn để lộ gần nguyên cặp chân dài trắng trẻo, chiếc áo hở ngực phơi ra một đường cong bắt mắt.

Nhìn thấy Tuấn, cô ta hỏi:
- Anh vẫn còn làm ở Samina chớ?
Sau một thoáng ngạc nhiên, Tuấn chợt nhận ra Tuyết, người con gái cùng làm chung hảng với anh, dường như cô ta mới bị laid-off trong đợt tháng vừa rồi - hãng vẫn thỉnh thoảng có những lần sa thải người sau một thời gian thử việc, để chọn lọc những người cần cù siêng năng và có tay nghề nhanh nhẹn.- Anh cười:
- Tuyết đã có job mới chưa? Không ngờ lại gặp em ở đây.
- Em đã apply mấy chỗ nhưng họ bảo chờ, vì thế nên em mới xin làm tạm ở đây được vài tuần rồi.
Tuyết nghiêng đầu xuống gần hai người, giọng nhỏ lại:
- Khổ lắm anh à, anh thấy đó, trời lạnh ngắt mà phải mặc quần áo hở trên trống dưới như thế này thiệt là hết biết.
- Ráng tạm thời gian đi.
Trọng nhìn cô gái trông có vẻ thật thà, dễ thương nên xen vào:
- Em làm loading có rành không?
- Trong line, em load nhanh nhất.
Tuấn đùa:
- Thiệt không đó? Vậy sao em bị off?
Tuyết nhìn vào trong quán, nói nhỏ tiếng “ xin lỗi, lát nữa em quay lại”, rồi vội vã quay vào trong nhà.
 

Hai người bạn đốt thuốc ngồi nhâm nhi ly cà phê, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ khác nhau. Trọng thì không tin Tuyết có tay nghề khá, nhưng Tuấn trong khi làm cùng một building với nhau, đã nhiều lần nhìn thấy Tuyết chạy tới chạy lui thoăn thoắt với công việc, anh nghĩ chắc cũng có những khúc mắc gì đây. Cùng cảnh ngộ là công nhân các hãng điện tử, Trọng cũng như Tuấn luôn sẵn lòng chia xẻ nỗi buồn của những bạn bè mất việc. Hiện tại nơi chỗ làm của Trọng đang thiếu một người loading, may ra giúp cho cô bé này được cũng là một điều tốt, nhưng ít ra Trọng phải biết chắc rằng người được mình giới thiệu vào phải là người khá, siêng năng trong nhiệm vụ.

Trọng hỏi Tuấn:
- Mày có quen con bé này không?
- Tớ biết nó chớ hỏng có quen, dường như nó làm việc khá nhưng bị con leader ganh ghét luôn đì nó – sếp của nó đen và xấu, trong khi nó trẻ và đẹp nữa – và còn ép nó làm việc nhiều, có lẽ bị nó cải lại nhiều lần nên đề nghị trên sa thải.
 

Đã nhiều năm làm công nhân, nên Trọng cũng không lạ gì thói xấu của bọn “con ông cháu cha” bà con hoặc người thân tín với chủ hãng, được chủ đưa làm supervisor, hoặc leader trông coi công nhân làm việc - thường là những hãng do người Tàu làm chủ – tự tung tự tác, bày đủ trò hối lộ từng bữa ăn thức uống của công nhân. Ai mua đồ cho ăn ngon thì thương, ai không có quà trong ngày sinh nhật, lễ Tết, Thanksgiving, Christmas v.v. thì bị ghét bỏ, phê điểm xấu, không cho tăng lương.

Thường thì Tuấn uống cà phê ở nhà tự pha lấy, Trọng cũng vậy. Với Trọng thì đã có gia đình rồi, lại đã được thêm một cô bé kháu khỉnh, nên anh cũng ít khi la cà vào quán như những anh chàng độc thân, Ngược lại, Tuấn độc thân nhưng lại giống như một ông già không thích những nơi ồn ào. Tuy vậy, thỉnh thoảng hai anh em cũng rủ nhau đi ‘rửa mắt” một bữa, để có lúc bỗng chạnh lòng thương những cô bé sinh viên, học sinh vì phải kiếm thêm tiền mua sách vở mà phải đi phơi đùi phơi ngực cho người ta nhìn.

Tình cờ sáng nay lại gặp Tuyết bưng cà phê ở đây, Tuấn đâm ra tức giận lây đến con mụ Liên, leader của Tuyết. Mụ ta cũng chừng băm mấy, xấu người xấu nết cả hãng đều không ai ưa. Xuất thân từ một công nhân bình thường, làm việc từ khi hảng mới thành lập, cũng có họ hàng thân thích xa xa với bà chủ, nên được đưa lên làm leader, coi phần loading. Bởi văn hoá kém quá, nếu không, chắc mụ cũng được lên Supervisor rồi. Về phần Trọng, anh nhìn sơ qua cũng thấy ở Tuyết những nét thành thực dễ thương, không phải là hạng gái chanh chua, đanh đá để dễ dàng gây gổ với người khác trong công việc.

Một lát sau, Tuyết trở lại dọn bàn bên cạnh, nàng đưa cho Tuấn một mảnh giấy nhỏ và nói,
- Đây là địa chỉ nhà em, mời hai anh chiều ghé lại chơi, sau năm giờ là em có ở nhà.
Buổi chiều Trọng cùng Tuấn sang nhà Tuyết, nhà cô bé cũng không xa, nằm trên đường Jackson, gần một nhà thờ Tin Lành. Ba Tuyết ra mở cửa mời hai người vào phòng khách. Có lẽ Tuyết đã cho cha mẹ biết trước về những người khách, nên câu chuyện bắt đầu có vẻ thân mật, ấm cúng. Vì cùng là dân HO với nhau nên dễ dàng thông cảm, 


Ba Tuyết hỏi:
- Hai anh có ở gần đây không?
- Dạ chúng cháu đều ở khu mobil home đường Quimby.
- Vậy thì cũng không xa, tôi cũng có hai người bạn cùng ở khu đó. Thỉnh thoảng lúc rảnh nhớ ghé lên đây chơi. Các anh còn trẻ, đi làm đuợc thì vui hơn, chúng tôi già, không dám lái xe nữa, ở nhà riết cũng buồn, đi đâu cũng phải nhờ các con đưa đi, phiền lắm, chúng nó cũng bận, vừa làm vừa học thêm.

Tuyết bưng ra mấy ly nước trà rồi ghé ngồi xuống ghế sofa cạnh cha, nói:
- Mời ba và hai anh dùng trà, hồi sáng nói chuyện với hai anh còn lở dở, bây giờ em nói tiếp nha. Chắc anh Tuấn cũng biết bà Liên, leader của em, con mụ ác ôn đó trong hảng ai cũng ghét, em làm giỏi hơn con Thanh em ruột nó, con kia làm sai nó lại đổ hô cho em, riết rồi em tức em không nhịn được nên mỗi lần thấy con Thanh làm sai là em nói lớn lên cho nó nghe, nó tức nên đề nghị em vào số bị off.
 

- Hảng anh đang thiếu người loading, - Trọng lôi từ trong túi ra tờ đơn anh đã lấy sẵn từ mấy hôm trước, định dành cho em gái anh, nhưng Loan lại mới được một job mới vào ngày hôm qua – em điền đơn này, thứ hai đem đến hảng anh sẽ nói với supervisor giúp cho.
Tuyết mừng rỡ cầm lấy tờ đơn, mĩm cười:
- Cảm ơn anh nhiều lắm, em sẽ cố gắng làm việc để khỏi phụ lòng anh giúp đỡ, giới thiệu.
Trọng kéo tay Tuấn, cả hai cùng đứng lên từ giã, Tuấn cũng vui lây:
- Chúc mừng Tuyết may mắn trong công việc mới.
Bà mẹ Tuyết từ nhà sau cũng ra tiễn hai người và cầm tay Trọng lắc lắc:
- Cám ơn cháu đã giúp đỡ cho con bác, bác sẽ khuyên nó biết nhịn nhường trong công việc. Hai anh em ra về, lòng nhẹ nhõm vì mới làm được một việc lành cho người khác.
 
Hình như có sự va chạm mạnh bởi đám mây nào đó vào thân máy bay, làm Tuấn giật mình thức giấc. Mở mắt nhìn sang bên cạnh, Trọng vẫn còn đang ngủ say. Ánh đèn mờ mờø trong khoang tàu. đủ cho anh thấy đa số hành khách trong các dãy ghế vẫn bất động, họ đều ngủ cả, có lẽ họ quen rồi, Tuấn nghĩ thầm. Với anh, đây là lần thứ nhì đi máy bay đường dài, lần đầu là sang Mỹ và hôm nay lại trở về thăm quê nhà. Cất cánh từ phi trường San Francisco máy bay hướng về phía Tây để ghé lại Tapei, bóng đêm cứ thế kéo dài ra hơn mười mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi vào vùng biển Trung Hoa trời mới bắt đầu sáng dần.

Định cư ở Mỹ đã hơn năm năm, mặc dù bạn bè nhiều lần rủ Tuấn về Việt Nam nhưng anh từ chối, chưa muốn đi, anh quyết định mua nhà tạo cho mình một nếp sống ổn định, rồi mới tính tới những chuyện khác. Mặc dù thân thuộc ở Sài gòn chẳng còn ai, nhưng hàng năm hai lần vào dịp trước Tết và ngày Mồng Năm (Đoan Ngọ) anh đều gửi tiền về cho gia đình bác Hưởng – một người bạn vong niên đã từng giúp đỡ và cưu mang anh, từ khi anh mới và quân ngũ cho đến cả những ngày anh sống lang thang ở Sài gòn – Bác Hưởng nguyên là một Thượng sĩ già trong đơn vị thám báo của Tuấn, ngày anh mới ra trường được bổ sung về đơn vị, như chú nai vàng ngơ ngác, mọi việc đều nhờ bác thượng sĩ già này dìu dắt, giúp đỡ. Những mớ lý thuyết trong sách vở ở trường, thường khác với sự va chạm trong thực tế chiến trận. Hơn hai mươi năm dạn dày trong lửa đạn, từ một anh binh nhì leo lên đến nấc thang cuối cùng của cấp hạ sĩ quan, thượng sĩ Hưởng đã có một vốn sống, một túi đầy kinh nghiệm chiến trường, thu gom bằng máu và mồ hôi, đẵ lần lượt được chuyển cho chàng chuẩn úy trẻ, giúp anh thoát khỏi nhiều hiểm nguy, đạt được nhiều thắng lợi trong bước đường quân ngũ đầy bất trắc. Tuấn coi ông Hưởng như người cha thứ hai của mình.

Thời gian anh bỏ khu kinh tế mới về thành phố làm “thợ đụng” sống lang thang, lại tình cờ gặp bác Hưởng ngày xưa, bác dắt anh về nhà ở chung với bác.Vợ con bác đã mất trong chuyến chạy loạn từ Pleiku, nên bác sống với đứa cháu gái mồ côi tên Thoa, mới mười bốn tuổi - con ngưòi em út của bác, sống sót trong năm 75 – Hai bác cháu sống trong một căn nhà, đúng hơn là một túp lều, giữa những túp lều khác trong một con hẻm nhỏ dưới chân cầu Trương Minh Giảng. Nhà không có giường, trên nền đất là những miếng ván ép cũ đủ cỡ ghép lại không kín, buổi tối mỗi người một manh chiếu trải lên, chiếc mùng nhà binh đã vá nhiều chỗ với tấm mền cắt đôi chia cho hai bác cháu. Ngày đầu tiên bước vào căn nhà tội nghiệp này, Tuấn hiểu ra đời sống của bác Hưởng và đứa cháu gái. Anh lội ra vỉa hè bán đồ cũ mang về ba chiếc ghế bố bằng số tiền dành dụm của mình. 

Ông Hưởng cằn nhằn anh phung phí, Tuấn cười:
- Bác sắm nhà thì cháu sắm giường chớ. Mùa nắng thì sao cũng được chứ khi mưa xuống nước tràn vô ngủ sao thấu, đau ốm làm sao.
- Năm năm rồi đó chú em. Tao ngủ luôn trên xích lô ngoài cửa còn con bé Thoa ngủ ké với bạn lứa nó ở nhà bên.
Những ngày tháng đầy mồ hôi trong căn nhà nhỏ nhưng làm ấm lòng Tuấn với những mảnh tình đời, tình người chia xẻ khó, nghèo.
Hôm Tuấn từ giả Sài gòn, trước khi vào phòng cách ly Tuấn vét túi còn bao nhiêu tiền đều trao cho bé Thoa – sau hai năm kể từ lúc có Tuấn trong nhà, đời sống khá hơn, ăn uống tương đối đầy đủ nên bé Thoa lớn phổng lên – dặn dò chăm sóc miếng ăn đầy đủ cho bác Hưởng, mai mốt đi làm có tiền sẽ gởi về phụ thêm cho.

Năm đầu ở Mỹ Tuấn có thư qua thư lại với bé Thoa, sau đó anh dặn Thoa đừng gửi thư tốn tiền vô ích, gắng tiết kiệm phòng khi ông Hưởng ốm đau, cứ hai tháng anh lại đến dịch vụ gởi về cho một trăm đồng, năm sau anh kéo lên ba tháng gửi một trăm rưởi. Sau mấy lần đổi nhà anh không còn nhận được thư Thoa nữa, cứ yên trí hai bác cháu Thoa sống khá hơn, bình yên với số tiền anh gởi về. Cho đến năm ngoái, sau khi gởi ba trăm đồng lần thứ hai trong năm, chừng một tuần Tuần nhận được hồi báo của dịch vụ tại Sàigòn, cho biết khu nhà có địa chỉ người nhận đã bị giải toả, không liên lạc được. Lo lắng cho đời sống của bác cháu Thoa, Tuấn nhờ dịch vu, liên lạc với cơ sở bên nhà tìm hiểu giúp, về cuộc sống hiện tại của gia đình ông Hưởng, anh sẽ trả thêm cho một trăm đồng phí tổn. Cuối cùng tin cho biết là ông Hưởng đã chết hồi tháng hai – trước khi khu xóm bị đuổi đi – và Thoa thì đi đâu không rõ. Tuấn buồn, mất ngủ cả tuần lễ.

Bố mẹ Trọng vốn có cảm tình với Tuấn, nên mẹ Trọng có gợi ý với hai cô con gái xem có cô nào bằng lòng lập gia đình với Tuấn không, nhưng cả hai cô đều bảo “thương thì có thương, nhưng không thể yêu ảnh được, ảnh trông có vẻ cù lần, thiệt thà quá”ù. Trọng thì có ý khác, anh còn có mấy đứa em gái con bà dì ở Đà Nẳng, muốn giới thiệu cho Tuấn, để Tuấn “vớt” được cô nào hay cô ấy, tụi nó đứa nào cũng thích lấy chồng Việt kiều để sang Mỹ. Bởi thế nên sau nhiều lần thuyết phục bạn, cuối cùng thì Tuấn bằng lòng về Việt Nam ăn Tết với Trọng, nhân tiện tìm một người vợ.

Chiếc máy bay có lẽ đã giảm dần độ cao, Trọng cũng vừa thức dậy, hỏi:
- Đến đâu rồi?
- Có lẽ tàu sắp vào phi trường Tapei.
- Mày định ghé lại Saigòn bao lâu?
- Chắc chừng vài bữa thôi, tao tìm mấy thằng bạn hỏi thăm xem thử con Thoa, cháu ông Hưởng giờ ở đâu, nếu gặp được thì giúp cho nó chút ít vốn liếng để sinh sống, tội nghiệp hoàn cảnh côi cút cuả nó.
- Hồi mày rời Sàigòn hình như nó đã mười sáu, giờ này cũng trên hai mươi rồi, không khéo lại trôi giạt bụi đời thì khổ thân.
 

Tuấn im lặng. Câu nói của Trọng như một mủi kim nhọn đâm vào lòng anh đau nhói. Giá như mấy năm trước anh không ngăn cản Thoa viết thư cho anh, hoặc anh vẫn liên lạc đều đều với Thoa, thì bây giờ anh đâu có phải hối hận với vong hồn ông Hưởng, vì đã để cho đứa cháu mồ côi của ông giờ này phải sống bơ vơ, chưa biết nương tựa nơi nào. Thân phận mồ côi của anh sau ngày ra tù anh đã nếm trải biết bao nhiêu đau thương tũi nhục, dù Tuấn đã là một sĩ quan từng vào sinh ra tử, huống gì Thoa gặp hai lần mồ côi, trong tuổi mới vào đời trong một xã hội đầy cạm bẩy, bất công, khốn khó. Đúng là anh thiếu trách nhiệm, thiếu vắng tình người, cứ tưởng rằng đồng tiền mình gửi về giúp cho bác cháu Thoa là đủ rồi, anh quên rằng đằng sau sự thiếu thốn vật chất, còn phải có một thứ thiêng liêng hơn, đó là tình cảm, tình yêu thương an ủi, nâng đỡ.

Hành khách đã lục tục đứng dậy mang hành lý ra phi trường. Còn phải chờ hai tiếng nữa mới đổi tàu về Sàigòn. Chiếc xách tay bây giờ như nặng hơn trên tay Tuấn. Lẽ ra chuyến trở về đầu tiên này sẽ làm cho anh vui hơn, không ngờ chỉ cần một câu nói vô thưởng vô phạt của Trọng làm Tuấn nặng lòng. Giữa đất Saìgòn mênh mông này dễ gì tìm được dấu vết cô gái mồ côi kia! Những bạn bè thường ghé nhà ông Hưởng hồi Tuấn ở đó, giờ chắc cũng đã ra đi, hoặc lưu lạc phương trời nào? Rồi anh tự an ủi mình, biết đâu lại gặp bác Tư bác Bảy hàng xóm hồi xưa để hỏi thăm.

Với hai ngày lang thang trong thành phố cũ, Trọng và Tuấn chỉ gặp lại một thằng bạn thương binh xưa, ngồi bán vé số bên ven đường Hồng Thập Tự. Hùng với biệt danh Hùng Râu, bạn cùng quê với Trọng, lại là bạn cùng khoá Thủ Đức với Tuấn. Ra trưòng, Hùng râu về binh chủng biệt động quân, bỏ lại một bàn chân trái trong trận đánh cuối cùng tại Long Khánh. Nếu không có tiếng gọi của Hùng, thì chắc hai người bạn cũ cũng không thể nhận ra được bạn mình. Hùng trông già như ông cụ sáu mươi, đen đủi hơn cả hồi còn là lính. Buổi trưa, ba người bạn ngồi quanh trên chiếc chiếu hoa, trải trên nền nhà bằng ciment của Hùng, uống gần hết một két bia với thịt bò tái và gà trộn. Hỏi thăm về Thoa và ông Hưởng, Hùng không biết, nhưng vợ Hùng lại kể rõ vanh vách – vì người chị vợ của Hùng trước cũng sống trong xóm ổ chuột đó – “ông Hưởng bị trúng gió chết, quan tài được thiêu và tro cốt được Thoa gởi vào một ngôi chùa nhỏ nào đó bên Gia Định, non tháng sau xóm bị giải tỏa, mạnh ai nấy lo nên chẳng biết Thoa chuyển đi nơi nào”.

Như vậy là người chết đã an phận, linh hồn được nương nhờ nơi cửa Phật, còn ngưòi sống thì bặt tin. Đêm trước khi lên tàu lửa ra Trung, Tuấn gọi một chiếc xích lô chở anh lên phía cầu Trương minh Giảng, đến dưới dốc cầu anh bảo bác lái xe dừng lại, rồi một mình đi bộ lên cầu, đứng nhìn một lúc lâu về phía con hẻm cũ lòng ngậm ngùi.

Chuyến về Việt Nam lần này lại là lần thứ hai đối với Trọng. Ba mẹ anh muốn anh thay mặt gia đình về thăm bà con nơi quê nhà, vì nghe tin bà Tám Lượng – chị ruột của ba anh – đau nặng sợ không qua khỏi tháng Chạp, nhân tiện rủ Tuấn về Đà Nẳng chơi, may ra chàng ta có chấm được cô cháu gái nào, để mang sang Mỹ tạo cơ hội cho chúng nó có một tương lai tốt hơn. Trọng thấy Tuấn là người có tình, có nghĩa nên tình cảm bạn bè giữa hai người lại càng đậm đà, anh luôn chiều theo ý Tuấn trong mấy ngày lang thang vô vọng ở Sàigòn. Không tìm được dấu vết của cô cháu gái mồ côi cũng làm cho Trọng buồn lây.

Nhờ vợ Hùng biết được đường dây chợ đen, nên ngày hôm sau hai người đã có vé tàu hạng nhất một cách dễ dàng. Lẽ ra, trước khi lên tàu về Đà Nẳng Trọng phải gọi điện thoại báo tin cho Châu, cô em họ của anh biết để đi đón, nhưng anh lại muốn dành cho gia đình Dì Tư một niềm vui bất ngờ. Hơn nữa gia đình Dì cũng bận rộn trong việc buôn bán vào những ngày giáp Tết, Trọng dự định rủ Tuấn cuốc bộ nhìn ngắm sinh hoạt quê mình, trên quảng đường khoảng bảy tám trăm mét, từ nhà ga xe lửa về nhà Dì Tư. Mỗi người chỉ có một va li nhỏ đựng hành lý, có tay kéo với bánh xe, nên đi bộ thong dong có lẽ thú hơn là phải ôm xe thồ, h ay ngồi xích lô dọt qua những ổ gà.
Nắng buổi chiều gần cuối tháng Chạp hanh vàng, dễ chịu, đang rọi nghiêng qua cửa sổ vào toa tàu, trong lúc đoàn tàu đang rùng mình dừng hẵn lại trong sân ga.
 

Trọng và Tuấn chờ cho mọi người xuống trước gần hết, rồi hai anh em mới thong thả kéo hành lý bước ra sân ga. Tuấn ngẩng đầu nhìn qua đám đông, khung cảnh ga Đà Nẳng cũng xô bồ hổn loạn như bất cứ một sân ga nào khác ở Việt Nam. Tiếng kêu réo, gọi người thân, tiếng mời chào món ăn, tiếng mời chào của tài xế xe xích lô, xe ôm, trộn vào nhau thành thứ âm thanh kỷ niệm, đã lâu lắm bây giờ anh mới gặp lại.

- Xin lỗi, xin lỗi nha. Anh em chúng tôi có người nhà đến đón ngoài kia rồi.
Trọng xua tay, rồi tự mỉm cười với câu nói dối của mình, để từ chối khéo những lời mời. Hai người phải dừng lại một lúc, chờ cho đám đông tản ra, rồi mới có thể lách được ra ngoài. Nắng dịu hẳn xuống.
 

Tiếng bánh xe nhỏ dưới va li hành lý cọ kìn kịt xuống mặt đường nhựa, Trọng đi chậm lại chờ Tuấn. Anh chỉ tay về phía trái sân ga:
- Nhà bà Dì mình ở phía đó, từ từ như thế này chắc cũng mất 15 phút mới đến.
- Thong thả, có gì gấp đâu, vẫn còn sớm mà.

Hai bên đường, những căn nhàđủ kiểu dáng khác nhau nối dài theo, khó có một khoảng trống. Những chiếc xe bán nước mía, sữa đậu nành, bánh trái… với những tiếng mời chào khi Trọng và Tuấn đi qua:
- Sữa đậu nành đi anh.
- Nước mía đi anh.
Trọng bước lên lề đường, anh chưa kịp nói gì thì một cô gái bưng ly nước mía từ phía sau chiếc xe ép bước vội tới, tay kia đã cầm sẵn chiếc ống hút. Anh hỏi:
- Có nước suối Vĩnh Hảo cho tôi một chai.
Tuấn cũng từ dưới lòng đường kéo hành lý lên theo.

Bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, ly nước mía trên tay cô gái đã rớt xuống đất vở tung ra.
Có tiếng kêu nhỏ: Anh...
Cô gái nhào tới phía Tuấn ôm chầm lấy bụng anh, rồi bật khóc to lên, bệu bạo “...anh Tuấn, anh Tuấn “
Tuấn suýt té. Anh kéo chiếc va li làm điểm tựa, sửng sốt.
Cô gái lại gào lên trong cổ họng “anh Tuấn... Tuấn”.
 

Tuấn đứng lặng một lát, đưa tay mặt xuống nhẹ nhàng gở cánh tay cô gái, nhưng cô ta càng ôm chặt hơn, nước mắt cô ta thấm ướt qua làn áo Tuấn, anh hỏi:
- Cô là ai, ở đâu mà biết tên tôi là Tuấn?
Giọng cô gái rung lên trong nghẹn ngào:
- Trời ơi, anh quên em rồi sao anh Tuấn, anh quên em rồi sao... Em, em là... là... đứa bé mồ côi cháu ông Hưởng đây mà...

Đám đông chung quanh xúm lại.
Tuấn buông chiếc va li, cúi xuống ôm lấy đầu cô gái, giọng anh run run: "Thoa, Thoa, Thoa đây sao!"
Trọng bước tới kéo chiếc vali của Tuấn lại phía mình, rồi lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê gần đó, lòng anh cũng rưng rưng lẫn lộn những nỗi vui, buồn.

Cẩm An Sơn